Thứ Hai, 29 tháng 12, 2008

HUYỀN THOẠI THẦY RẮN HỔ





Về Cà Mau, nhân một bữa nhậu thịt rắn, tình cờ được nghe những câu chuyện nửa thực nửa hư, đầy chất huyền thọai về những ông thầy rắn hổ chuyên hành hiệp chữa bệnh cứu người. Mặc dù là những câu chuyện mang màu sắc huyền bí nhưng lại là những con người thật, có tên tuổi và địa chỉ hẳn hoi nên tôi quyết định làm một cuộc hành trình tìm kiếm những ông thầy ấy xem hư thực ra sao.

Trước tiên là câu chuyện về ông Bảy Còi, ở ấp Nhà Phấn, xã Lương Thế Trân, huyện Cái Nước, cách trung tâm thị xã Cà Mau gần 20 cây số. Người ta kể rằng cách nay mấy năm, có chị Thu Vân chuyên nghề bán rắn ở cầu Mới bị rắn hổ cắn, lúc đang nằm cấp cứu trong bệnh viện, các y bác sĩ bảo người nhà của chị đi rước ông Bảy Còi ra cứu chữa vì bệnh viện không có thuốc đặc trị, chỉ truyền dịch cầm hơi. Lúc ấy người nhà của chị Vân chia nhau đi tìm thầy thuốc rắn, đã rước được hai người, riêng ông Bảy Còi, ban đầu ông từ chối vì cho rằng chị Vân bị rắn cắn vào giờ thọ tử, không cứu được, nhưng người nhà nạn nhân khóc lóc van xin nên ông buộc lòng phải đi. Đến nơi, hai người đồng nghiệp tỏ ra bất lực và cầu cứu ông, ông nhìn dấu răng trên tay nạn nhân rồi lắc đầu nói: “Con rắn nầy có 23 khoang, trên lưng nó có dấu chỉa cách đầu khỏang một gang tay, thuộc lọai rắn hổ mang, cực kỳ độc, hiện giờ nó còn ở trong nhà của người mua, cách nhà chị Vân ba căn về hướng tây”. Gia đình chị Vân cho người đi mua lại con rắn ấy mang vào bệnh viện. Ôg Bảy Còi thò tay vào bao bắt ra, một con rắn giống y như lời ông mô tả. Ôg khẳn định lại một lần nữa là bệnh của chị Vân không cứu được rồi xin lỗi gia chủ ra về. Đúng 10 giờ trưa hôm ấy, chị Vân tắt thở.

Tôi nhờ Nguyễn Tiến Trình, phóng viên báo Thanh Niên thường trú ở Cà Mau chở tôi đi tìm ông Bảy Còi vì được biết mẹ của Trình, chị Tám Thẩm, từng bị rắn hổ cắn sắp chết đã được ông Bảy Còi cứu sống. Trình kể: “ Buổi tối hôm ấy mẹ em đang giặt đồ phía sau nhà thì bất thần bị rắn hổ quặp vào chân. Lúc mượn được xuồng máy chở đi thì mẹ em đang nguy kịch, người co giật và lạnh cóng, đàm trào lên cổ, mắt trắng đờ. Khi ghé nhà ông Bảy Còi thì thấy ông và mấy người hàng xóm đang ngồi nhậu như trong tư thế đợi chờ, xuồng vừa cặp bến thì nghe họ bảo: “Tới rồi kìa !”. Và họ tức tốc xuống khiêng mẹ em lên, cứu sống ngay trong đêm ấy.”

Trên đường đi tôi cứ hình dung ông Bảy Còi là một người rất khác đời, từ cách ăn mặc, tóc râu, diện mạo phải đầy huyền bí như những câu chuyện về ông. Nhưng khi đến nơi, thấy ông ngồi sửa xe gắn máy trước cửa nhà cùng hai đứa con trai, hóa ra ông cũng là một nông dân bình thường như bao nhiêu người khác. Hơn thế nữa, ông còn là một phó công an xã, khá lừng lẫy trong việc trấn áp các tệ nạn cờ bạc, đá gà ở xã Lương Thế Trân. Trên tấm vách lá nhà ông treo nhiều giấy khen, bằng khen của địa phương về thành tích chữa bệnh cứu người, nổi cộm nhất là tấm Huy chương “Vì sự nghiệp nhân đạo” của hội Chữ Thập đỏ Việt Nam. Ông cho biết, cả dòng họ bên nội ông đều làm thầy thuốc rắn, nổi tiếng từ Bến Tre đến Cà Mau. Riêng ông hành nghề từ năm 20 tuổi, đến nay đã 33 năm, bình quân mỗi năm cứu sống khỏang 30 mạng người. Trong hơn 30 năm hành nghề, ông đã từ chối ba ca mà theo ông thì đó là số mạng của những người sanh nghề tử nghiệp, trong đó có chị Vân vừa kể trên.

Tôi hỏi vì sao ông biết con rắn cắn chị Vân có 23 khoang và một vết chỉa trên lưng, cách đầu một gang tay ? Bảy Còi nói rằng đó là do Tổ nghiệp báo trước. Ông giải thích: thông thường, bất kỳ ca bệnh nào Tổ nghiệp cũng báo mộng trước ba ngày để mình không nên đi xa. Ngay cả những ca không cứu được, Tổ cũng báo trước để mình từ chối, sợ mất uy tín nghề nghiệp. Nói về ca bệnh của chị Tám Thẩm, mẹ của Tiến Trình, ông cho rằng đó là một trường hợp đặc biệt trong cuộc đời hành hiệp của ông.

-Xin lỗi nhà báo – ông nói – mình là cán bộ, đảng viên, lại là cán bộ ngành công an mà nói chuyện duy tâm nghe kỳ quá. Hôm ấy Tổ báo mộng rằng có một ca bệnh nặng. Thông thường thì Tổ cho hay có cứu được hoặc không. Nhưng lần nầy ông bảo mình hãy cố gắng, vì nếu như nạn nhân nầy có tích đức của cha ông thì sẽ qua khỏi, bằng không thì sẽ không cứu được. Tôi rất băn khoăn nên tối hôm ấy tôi làm con gà cúng Tổ và mời mấy ông già hàng xóm qua nhậu để giải bày, vì nếu lỡ không cứu được thì cũng có người lớn tuổi cảm thông, chia sẻ với mình. Chúng tôi vừa nhậu lai rai vừa chờ bệnh nhân tới. Khi thấy cặp mắt của chị Tám trắng đục, đàm lên cứng cổ thì tôi nghĩ hết cách rồi. Đổ hết bốn liều thuốc cũng không ăn thua, xài hết bốn chữ bùa cũng không ăn thua. Tôi mệt lã người như bất lực, bèn lên giường nằm nhắm mắt lại, cố nhớ chữ bùa cuối cùng mà cha tôi truyền lại trong cơn hấp hối, nét nhớ nét quên. Tôi ngồi bật dậy, cố họa theo những gì trong trí nhớ. Nhưng không ngờ khi vừa đổ xong, đàm xuống một cái ọt đến nổi ai cũng nghe được. Lúc ấy đã hơn hai giờ sáng, tôi gần như kiệt sức.

Nhìn căn nhà của Bảy Còi trống trơ vách lá, tôi hỏi hình như ai làm thầy rắn hổ cũng nghèo ? Ông nói “không nghèo sao được, xài tòan thuốc quý hiếm mà đã theo nghiệp tổ thì cứu nhơn không được lấy tiền. Ngày xưa cha tôi giỏi đến nổi các ông chủ tiệm thuốc bắc mời ra xem mạch kê toa, vừa hưởng lương vừa hưởng hoa hồng, nhưng ông kiên quyết từ chối. Bây giờ tôi truyền nghề lại cho con tôi cũng thế. Đã theo nghiệp tổ thì phải luôn tu tâm dưỡng tánh, không được vụ lợi,dù có nghèo đến cạp đất ăn cũng phải xem việc cứu người là bổn phận của mình”.

Nhà văn Sơn Nam nói rằng, ngay từ buổi bình minh của lịch sử khẩn hoang miền Nam, dường như tạo hóa đã ban cho mỗi làng xã một bà mụ vườn, một ông thầy lang và một ông thầy rắn hổ để cứu nhơn độ thế. Sự phân bổ nầy không theo địa giới hành chánh mà theo khỏang cách không gian tương ứng với thời gian chuyển bệnh bằng phương tiện xuồng chèo một cách an tòan. Ví dụ như khi bị rắn cắn thì phải tìm thầy gần nhất để cứu kịp trong thời gian một tiếng rưởi đồng hồ.

Anh Năm Rí, trưởng công an huyện U Minh dẫn tôi đến nhà ông Sáu Thuận, 67 tuổi, chuyên trị vùng Nguyễn Phích, Biện Nhị, Khánh Lâm suốt 47 năm qua. Cũng như Bảy Còi, ông Sáu Thuận là một nông dân hiền lành, chất phác, nói năng từ tốn từng câu. Khi khách đến, các con ông cúi đầu chào hỏi, pha trà rồi rút lui làm cho chúng tôi thầm nể phục một gia đình có gia phong nề nếp. Ông sáu Thuận cho biết, cha ông là Phạm Văn Cử, một thầy thuốc rắn nổi tiếng ở vùng nầy. Ông Cử lại là học trò của hai ông Tư Lục và Tám Rớt, hai bậc thầy thuộc hàng cao thủ với nhiều huyền thọai còn truyền lại ở U Minh. Ông Thuận kể rằng Tư Lục ngày xưa xây nò bắt cá khắp các kinh rạch trong vùng nhưng chẳng ai dám trộm cá vì mỗi cái nò ông sai khiến bốn con rắn hổ mây ngày đêm canh giữ. Năm 1945, Tư Lục bị ông H. một cán bộ huyện bắt giam một tuần vì cho rằng ông hành nghề mê tín di đoan. Khi Tư Lục được trả tự do mấy ngày thì ông H. bị rắn cắn, gia đình rước hai ba ông thầy đến chữa nhưng không khỏi, rước Tư Lục thì ông từ chối. Đến khi người ta đóng hòm chuẩn bị liệm ông H. thì Tư Lục tới, ông cầm nhan họa một chữ gì đó lên chỗ vết răng rắn trên chân ông H. và thổi một cái phù, vài phút sau đàm xuống một cái ọt, ông H. sống lại trong sự kinh hãi của dân làng, cuối cùng ông H. đem cái hòm ra đốt bỏ.

Về phần người cha của mình, ông Sáu Thuận cho biết, năm 1960, ông Cử chữa một ca bệnh không thành, ông tuyên bố bỏ nghề và truyền lại cho ông Thuận, bởi vì theo nguyên tắc của nghiệp Tổ, trước mỗi bệnh nhân đều được Tổ báo mộng trước ba ngày, hoặc là từ chối, hoặc là chữa khỏi. Ông Cử nhận chữa nhưng bệnh nhân tử vong, ông cho rằng Tổ không còn độ ông nữa, đành phải giao lại cho con. Trong 47 năm qua, ông Thuận đã cứu chữa cho hàng ngàn người nhưng ông chưa hề nhận của ai một đồng xu, trừ những trường hợp người ta mang gà vịt đến cúng tổ, ông nhận nhưng cũng mời hàng xóm đến nhậu để chung vui, mừng cho bệnh nhân thóat nạn. Ông nói trong 47 năm hành hiệp, ông đã từ chối ba ca theo lệnh tổ, cả ba người ấy đều hành nghề mua bán rắn nên không cứu được. Khi được hỏi về phương pháp điều trị, ông Sáu Thuận bình thản nói:

-Có chú Năm đây là trưởng công an huyện, tôi cũng xin nói thật chẳng giấu giếm điều gì. Cái nghề nầy có sự kết hợp giữa âm dương, giữa duy tâm và duy vật. Ngày xưa tôi trị thuốc là chính, bùa ngãi là phụ. Nhưng sau năm 75, thuốc bắc khan hiếm, thuốc giả tràn ngập thị trường, tôi lên Châu Đốc tìm học cách chữa theo phương pháp duy tâm của một ông thầy Ấn Độ.

Ông Sáu Thuận dẫn chúng tôi sang một gian nhà nhỏ bên cạnh, cửa đóng kín, trong đó có hai bàn thờ trùm vải đỏ, mỗi bàn thờ có một lư hương. Ông nói đây là cái am thờ 12 vị Tổ Lèo. Hàng năm ông cúng Tổ vào ngày mồng ba tháng giêng và mồng năm tháng năm âm lịch.

Anh Năm Rí là người quen biết rất nhiều thầy rắn hổ ở U Minh, kể cả những giai thọai ly kỳ về những ông thầy đã chết. Khi tôi hỏi những chuyện huyền bí về các thầy rắn hổ, như ông sáu Thuận chẳng hạn, Năm Rí cũng trả lời rất thật thà: “ Đúng là khó hiểu, nhưng rõ ràng là họ chỉ làm phước, không lợi dụng mê tín dị đoan để trục lợi”.

Theo anh Năm Rí thì thầy rắn hổ có hai lọai thầy: thầy chữa bệnh và thầy bắt rắn. Thầy bắt rắn thường kiêm luôn nghề chữa bệnh, nhưng cuối đời hầu như tất cả đều chết vì rắn cắn. Còn thầy chữa bệnh tuy vẫn có tài bắt rắn nhưng dường như để tránh hậu quả sanh nghề tử nghiệp, họ không lấy việc săn bắt rắn để mưu sinh.

Anh Sáu Nguyên, một thầy rắn hổ còn khá trẻ ở Rạch Dinh, con trai thầy Tư Biên một thời nổi tiếng ở U Minh cho biết, cha anh dạy nghề cho anh nhưng cấm anh bắt rắn, mặc dù rắn hổ gặp anh phải cúi đầu. Có lần Sáu Nguyên đi tàu đò ra Cà Mau, dọc đường, bao rắn của một hành khách bị sút dây, những con rắn hổ bò ra, phùng mang làm cho hành khách trên tàu hốt hỏang đổ dồn về phía sau. Thấy tàu sắp chìm, Sáu Nguyên ra hiệu cho bà con bình tĩnh rồi bước tới bao rắn, những con rắn đang hung hãn bỗng dưng cúi đầu nằm co lại. Sáu Nguyên bắt từng con bỏ vô bao rồi cột miệng trả lại sự an tòan.

Ở U Minh hầu như ai cũng biết câu chuyện thầy Năm Ngọc có tài đến mức điều khiển rắn đi cắn người khác. Nhưng chính Sáu Nguyên là người xác nhận câu chuyện ấy vì Năm Ngọc là thầy của cha anh. Sáu Nguyên nói Năm Ngọc nổi tiếng cả hai lĩnh vực chữa bệnh rắn cắn và bắt rắn. Hàng năm, sau ngày cúng tổ ( Mồng 5 tháng 5 âm lịch ), Năm Ngọc cho hay năm nay ông tiếp bao nhiêu bệnh nhân và chữa được mấy người, còn mấy người tử nạn. Trong nghề bắt rắn, Năm Ngọc không cần đào hang mà chỉ cần vỗ nhẹ vào miệng hang thì lập tức rắn hổ bò ra nộp mạng cho ông. Hồi nhỏ, Sáu Nguyên từng theo làm học trò Năm Ngọc nhưng cha anh không cho vì hai lẽ: thứ nhất là cấm anh không được bắt rắn để mưu sinh, thứ hai, năm Ngọc từng mang tai tiếng dùng nghề nghiệp để hại người. Sáu Nguyên kể, hồi năm 1970, Năm Ngọc đã làm một chuyện để đời cho đến bây giờ: Ông bị kẻ trộm lấy hai con cá ngát, tức giận ông tuyên bố: “Thằng nào ăn cá của tao phải trả lại con heo”. Mấy hôm sau anh M. ở đầu kinh bị rắn hổ cắn. Hai người học trò của Năm Ngọc chữa không được, bèn rước Năm Ngọc đến cầu cứu. Năm Ngọc bảo phải vái con heo và phải trả lễ đúng ba ngày sau khi hết bệnh. Gia đình nạn nhân làm theo. Khi M tĩnh dậy, Năm Ngọc ra lệnh: “Mầy phải quỳ xuống thề độc là từ nay về sau không được ăn cắp trái cà trái ớt, con cá cọng rau của ai thì tao mới bảo đảm sinh mạng cho mầy”. M. quỳ xuống, mặt không còn chút máu. Ba ngày sau anh đi mua con heo mang qua cúng tổ tại nhà Năm Ngọc. Ông Tư Biên – cha của Sáu Nguyên – lấy làm thắc mắc bèn bỏ mấy ngày ra điều tra xem anh M có lấy trộm cá của Năm Ngọc hay không. Cuối cùng, một người ở kinh Hàng Gòn xác nhận có mua của M một con cá ngát nặng hơn hai kg và thấy M mang về một con.

Từ đó cả vùng U Minh không ai dám làm mất lòng ông Năm Ngọc. Về già, ông bị tâm thần và chết thảm hại trong ngôi miếu hoang.

Nói về ông Tám Rớt, thầy của cha mình, Sáu Nguyên kể: Tám Rớt là một người lang bạt không nhà, một thân một mình với chiếc xuồng và cái thùng đựng rắn. Ông thường tá túc ở nhà của những học trò ruột của mình, mà chủ yếu là nhà Tư Biên – tức cha của Sáu Nguyên. Thuở ấy, Sáu Nguyên mới 15 tuổi. Một hôm, Tám Rớt và Tư Biên đang ngồi uống trà, bổng Tám Rớt gọi Sáu Nguyên đến bảo anh đi rửa thùng rắn hổ. Sáu Nguyên chết điếng người khi nhìn thấy trong thùng hàng trăm con rắn đang phùng mang trong tư thế tấn công. Tám Rớt bảo anh cứ bắt hết rắn thả ra sân rồi múc nước rửa thùng. Đang muốn học nghề và biết ông thầy đang thử thách lòng dũng cảm của mình, Sáu Nguyên đánh liều làm theo. Nhưng anh ngạc nhiên khi Tám Rớt ho một tiếng thì những con rắn hổ đang phùng mang ấy bổng cúi đầu ngoan ngõan. Khi anh bắt chúng thả ra sân, những con rắn lại phùng mang và bò đi tứ phía, Tám Rớt lại ho một tiếng, chúng liền mọp xuống, co mình nằm khoanh một chỗ. Cứ thế, Sáu Nguyên hốt sạch hàng trăm con rắn trong thùng thả ra sân, rửa thùng xong, anh lại hốt chúng bỏ vào. Những con rắn cứ hiền lành như dây chuối.

Như để chứng tỏ tài nghệ của mình, chiều chiều Tám Rớt thường bắt con rắn hổ quấn lên cổ và dẫn Sáu Nguyên đi chơi trong xóm. Lúc trà dư tửu hậu, ông bảo con rắn bò lên mình bất cứ người nào mà ông muốn. Rồi có một ngày, Tám Rớt bơi xuồng về nhà Tư Biên trong tư thế rã rời, mặt mày tái nhợt. Biết chuyện gì đã xảy ra, Tư Biên thắp nhang lên bàn thờ Tổ và bảo Sáu Nguyên đi rước thêm một ông thầy trong xóm nhưng Tám Rớt bảo: “ Khỏi chữa, hết thời rồi ! Chính nó, chính con rắn chúa trong miễu mà tôi từng sợ nhất nhưng vẫn không thóat khỏi nó”.

Sáu Nguyên tổng kết rằng hầu hết những người sống bằng nghề bắt rắn và mua bán rắn khi về già tâm trí không bình thường, kẻ thì nát rượu, người thì lảm nhảm như điên, và cuối cùng đa số họ chết vì rắn hổ chúa.

Tôi gặp thầy Ba Ớt ở ấp 4 xã Khánh Lâm, tuy mới 50 tuổi nhưng trông anh già khọm, giọng nói khàn khàn, người lúc nào cũng ngà ngà say. Ba Ớt cho biết, lúc đi bộ đội ở biên giới Tây Nam, anh học nghề bắt rắn của một ông lão người Chăm, khi xuất ngũ về quê, anh sống bằng nghề bắt rắn cho đến bây giờ. Vào những năm 80, rừng U Minh còn mù mịt, Ba Ớt bắt một ngày hàng trăm ký rắn. Hỏi có bí quyết gì, Ba Ớt nói anh không có khả năng vỗ miệng hang cho rắn bò ra như Năm Ngọc và Tám Rớt, chỉ có điều rắn hổ gặp anh là phải cúi đầu nằm im một chỗ. Anh chìa hai bàn tay cho chúng tôi xem, hai bàn tay sần sùi như da cóc, anh nói đã bị rắn hổ cắn hơn mười lần nhưng chẳng ăn thua gì. Hỏi khi bị rắn cắn thì chữa bằng cách nào, Ba Ớt nói: “ Nếu là rắn hổ mây thì hái đọt mây nhai với phèn chua, nuốt nước, lấy xác đắp lên vết cắn. Còn rắn hổ đất thì quay lưng lại, bước đúng bảy bước, lấy bất kỳ cỏ gì có thể lấy được, cũng nhai, nuốt nước, lấy xác đắp lên, nhưng phải nút máu bầm chỗ vết cắn”. Ngừng một lát, Ba Ớt nói tiếp: “ Nói gì thì nói nhưng tại mình chưa tới số thôi, trước sau gì tôi cũng gặp con rắn chúa. Sanh nghề tử nghiệp mà !”

Hỏi về sự huyền bí trong nghề, Ba Ớt nói rằng trước khi đi phải thắp nhang trước bàn thờ Tổ và vái: “ Xin ba mươi sáu vị lục Tổ, chúa sơn lâm, rừng, thần sơn, thần đất . . . cho tôi đi xóm”.

Chúng tôi định mang những câu chuyện đầy màu sắc huyền bí ở U Minh về đối chiếu với trại rắn Đồng Tâm – Mỹ Tho, một trung tâm nghiên cứu, bảo tồn và phát triển các lòai rắn độc có một không hai ở Việt Nam mà người sáng lập nó là một thầy rắn hổ nổi tiếng ở miền tây nam bộ: Đại tá, bác sĩ quân y Trần Văn Dược. Nhưng ông Tư Dược đã qua đời cách nay 17 năm, những huyền thọai về ông cũng đã kết thúc khi khoa học kỹ thuật và nhiều công trình nghiên cứu đã được ứng dụng từ trại rắn nầy.

Thượng tá Nguyễn Quang Khải, phó giám đốc trại rắn cũng kể một cách mập mờ về ông Tư Dược: “ Nghe nói ngày xưa, chú Tư được một ông thầy Ấn Độ dạy nghề điều khiển rắn và chữa rắn cắn bằng những phương pháp gia truyền, nhưng kể từ khi trở thành bác sĩ và xây dựng trại rắn nầy, ông hướng công việc chăn nuôi và chữa rắn cắn thành các đề tài khoa học, những huyền thọai lần lượt mất đi”.

Trước cổng trại rắn Đồng Tâm là một trung tâm cấp cứu và điều trị các bệnh do rắn độc. Bình quân mỗi năm tiếp nhận khỏang 500 bệnh nhân ở các vùng lân cận. Thiếu tá bác sĩ Phan Văn Phát, phó giám đốc trung tâm giải thích: Khi bị rắn độc cắn, nọc rắn theo đường máu của bệnh nhân, tác động đến thần kinh trung ương, tăng tiết đàm giải mà dân gian thường gọi là trào đờm, sau đó bệnh nhân sẽ bị cứng hàm, sụp mi mắt, trong vòng 90 phút thì tắt đường hô hấp. Những năm trước đây, tỷ lệ tử vong tại trung tâm cấp cứu rất cao vì dùng thuốc gia truyền, tác dụng chậm nên không cứu được những bệnh nhân vận chuyển đường xa. Từ năm 2001 đến nay, trại rắn Đồng Tâm kết hợp với viện Pastuer Nha Trang nghiên cứu thành công việc dùng nọc rắn hổ với máu ngựa để bào chế ra lọai vacxin tiêm trực tiếp vào mạch máu của bệnh nhân. Kết quả nầy đã giảm tối đa tỷ lệ tử vong tại trung tâm cấp cứu, nếu bệnh nhân chưa tắt thở trước khi vào cổng.Bác sĩ Phát cũng cho biết thêm, giá của mỗi liều thuốc như vậy là hai trăm ngàn đồng, mỗi bệnh nhân phải được tiêm từ 5 đến 20 liều tùy theo nọc độc của mỗi lọai rắn. Tuy nhiên, so với các phương pháp điều trị dân gian thì lọai vacxin nầy không ngăn được sự họai tử ở vết thương nên bệnh nhân phải vá da. Song, cho dù phải tốn kém thời gian và chi phí đến đâu cũng không thể so sánh với một mạng người. Chỉ có điều, vì những lý do nào đó mà lọai vacxin quý hiếm nầy chỉ cung cấp cho bệnh viện Chợ Rẫy và trại rắn Đồng Tâm thì những miền quê xa xôi vẫn chưa kết thúc những huyền thọai bí ẩn về những thầy rắn hổ.

Chúng tôi ghi lại những câu chuyện nầy một cách tự nhiên – cái tự nhiên vốn có như huyền thọai. Không cổ súy, cũng không bài bác. Biết nói thế nào được khi cuộc sống cứ luôn tồn tại những điều bí ẩn.


-->đọc tiếp...

Thứ Sáu, 26 tháng 12, 2008

NỮ HOÀNG ÁO BÀ BA





Bà Trần Tố Linh năm 18 tuổi



Bà quả phụ Trần Tố Linh, vợ của nhạc sĩ Trần Kiết Tường, năm nay đã hơn tám mươi tuổi nhưng trí nhớ vẫn còn minh mẫn, gương mặt và nụ cười đầy phúc hậu. Tiếp chúng tôi trong căn nhà mặt tiền đường Võ Thị Sáu, trong tiếng xe cộ ồn ào và tiếng còi inh ỏi liên tục của những đoàn xe tải nối đuôi nhau trước ngã tư đèn đỏ nhưng vẫn không làm át đi giọng nói rành mạch và khoẻ khoắn của bà trong câu chuyện kể về chiếc áo bà ba.

Bà vốn là Việt kiều Campuchia nhưng được sinh ra, lớn lên và sống nhiều năm bên bờ tây sông Hậu. Dù bà không kể về thời con gái của mình nhưng bức ảnh bà chụp hồi năm mười tám tuổi đã chứng minh cho một vẻ đẹp sắc sảo, mặn mà và quý phái chẳng thua kém gì một nàng hoa hậu. Bà kể rằng, nhạc sĩ Trần Kiết Tường ngày xưa cũng rất hào hoa, phong nhã. Vào khoảng đầu năm 1940, sau khi đậu tú tài Pháp, ông sang Campuchia dạy Pháp văn ở một trường tư thục. Lúc bấy giờ bà cũng đang học may ở Nông-Pênh. Trai tài gái sắc gặp nhau và yêu nhau trên đất khách. Sau Cách mạng tháng Tám, ông Tường nói với bà rằng chúng ta cần phải làm một việc gì đó cho quê hương, bà cũng cảm thấy điều đó đúng. Vậy là đôi tình nhân trẻ dắt nhau xuống tàu, xuôi theo dòng sông Hậu về quê tham gia kháng chiến.

Bà Linh nói rằng chẳng hiểu sao hồi ấy bà chỉ thích mặc áo bà ba, ngay cả khi làm lễ cưới với nhạc sĩ Trần Kiết Tường, bà cũng chọn chiếc áo bà ba làm áo cưới.

Hồi ấy, khoảng giữa đầu thế kỷ hai mươi, chiếc áo bà ba đã thịnh hành ở nam bộ cả thành thị lẫn nông thôn, cả nam giới và nữ giới. Theo bà Tố Linh thì nó có mặt ở miền Nam từ cuối thế kỷ mười chín, do những thuyền viên người Bà Ba ở Mã Lai du nhập vào. Ban đầu, nó chỉ được dùng trong lao động, sau đó được các thợ may ở Sài Gòn lục tỉnh cải tiến dần để trở thành một thứ trang phục sang trọng, làm tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ miền Nam.

Hồi ấy, hầu như tất cả những người con gái Nam bộ đều biết may áo bà ba để tự may áo cho mình. Không có máy thì họ may bằng kim tay. Những người mẹ có con trai đến tuổi lấy vợ, trong các đám tiệc, các bà thường hay để ý đến những cô gái có mặt, vì những cô gái ấy luôn luôn mặc chiếc áo bà ba đẹp nhất do chính tay mình may, để xem từng đường kim mối chỉ, từng đường ráp có mịn màng, khéo léo hay không. Bởi đó chính là tiêu chuẩn đầu tiên để lựa chọn một cô dâu, là chữ công trong bốn đức tính truyền thống của người con gái. Tuy nhiên, theo bà Tố Linh, mặc dù thời bấy giờ cô gái nào cũng có thể tự may được áo bà ba, nhưng để may được một chiếc áo đẹp, vừa tạo được cái duyên ngầm, vừa kín đáo lại vừa làm nổi bật lên những đường nét thanh tú trên cơ thể người con gái là chuyện không phải dễ dàng, không phải ai cũng làm được dù là thợ may chuyên nghiệp. Bản thân bà dù được học may ở Nông-Pênh bốn tháng nhưng chỉ học may đồ Tây nên chẳng áp dụng được một chút kinh nghiệm nào trong việc may áo bà ba. Nhưng có lẽ nhờ vào sự đam mê và dày công nghiên cứu, khi theo chồng vào chiến khu, bà đã may được nhiều chiếc áo đẹp cho chị em đồng đội. Người ta nói chiếc áo bà may đã làm cho người mập trở nên thon và người ốm trở nên tròn. Thế là chẳng bao lâu, bà được nhiều người mến mộ. Khi đến bất cứ nơi đâu thì trước tiên bà là người mặc áo bà ba đẹp nhất, và khi ở lại thì bà là người làm đẹp cho phụ nữ trong vùng với chiếc áo bà ba.

Có lẽ đó là một ấn tượng khắc sâu trong lòng nhạc sĩ Trần Kiết Tường để rồi những năm sau ngày đi tập kết, một trong những bản nhạc đầu tiên của ông viết giữa lòng thủ đô Hà Nội là bài Chiếc áo bà ba.

Trời thanh thanh nắng trưa êm đềm. Hồ Gươm vui sắc hoa xinh thắm.ngời ánh nắng áo tím áo xanh. Thoáng qua, thoáng qua, thoáng qua kìa áo bà ba. Tôi nhớ ai bên dòng nước xanh. Người áo trắng đi bên hàng dừa. Người yêu tôi mong chờ. . . Còn trông theo phất phơ chiếc áo. Nhìn chéo áo tôi nhớ thương ai. Nhớ thương, nhớ thương, nhớ thương người ở miền Nam.

Năm 1957, một đêm mưa bên bờ tây sông Hậu, trong vùng kềm của ấp chiến lược, trong nỗi nhớ chồng day dứt của người vợ trẻ bên hai đứa con thơ. Bà Trần Tố Linh mở chiếc radio nghe lén chương trình văn nghệ của đài Tiếng nói Việt Nam. Bất giác, chiếc radio phát ra bản nhạc Chiếc áo bà ba của nhạc sĩ Trần Kiết Tường – chồng bà – Bài hát với từng chữ, từng lời, từng âm điệu thiết tha đã làm cho lòng bà xôn xao, như nửa mê nửa tỉnh, như ông đang thì thầm tâm sự rằng ông đang khắc khoải từng phút từng giờ với hình bóng quê hương, với người vợ trẻ trong chiếc áo bà ba dịu dàng, phất phơ soi bên dòng sông Hậu.

Trong đêm mưa ấy, bà Linh đã thao thức trắng đêm để đi đến một quyết định táo bạo là: Tìm đường vượt tuyến ra miền Bắc để được đoàn tựu với chồng.

Suy đi tính lại, bà biết rằng không thể vượt qua vĩ tuyến 17 bằng bất cứ con đường nào dù công khai hay bí mật. Vốn là Việt Kiều campuchia, cho nên, bằng một con đường thân nhân, bà đi thẳng qua Nông-Pênh với ý định từ đó sẽ băng rừng vượt núi sang Lào để đi vòng qua Nghệ An. Năm ấy bà chưa đầy ba mươi tuổi, lại phải tay xách nách mang hai đứa con, một bé gái lên sáu và một bé trai mới lên bốn tuổi.

Gần một năm trời ở Nông-Pênh, bà phải bươn chải để nuôi con, nuôi mình và nuôi niềm hy vọng. Có một điều bà không thể ngờ rằng những ngày tháng ở đây, bà được gặp thêm mười hai người phụ nữ cùng cảnh ngộ với bà. Đó là những người phụ nữ miền Tây bị chính quyền Sài Gòn đàn áp, buộc phải ký tên ly dị với người chồng tập kết, họ đã trốn sang campuchia để tìm đường ra Bắc, trong đó có bà Dương Thanh Cầm dẫn theo đứa con gái lên năm tuổi ( tức chị Nguyễn Thế Thanh, phó giám đốc sở VHTT TP HCM bây giờ ).

Mười ba người chinh phụ ấy hợp lại và kiên quyết vượt rừng Lào. Nhưng con đường trên đất nước Lào là con đường đầy hiểm trở: Núi cao, rừng sâu, thác dữ, thú dữ, muỗi vắt như mưa. Nhưng họ vẫn cứ đi mà không hề nao núng. Sau mười ngày bằng rừng, họ đi lạc vào một khu vực cấm của quân đội Lào nên đành quay trở lại đất Campuchia.

Trong lúc đang tuyệt vọng thì vận may lại đến : Năm 1958, chính phủ Hoàng gia Campuchia ký Hiệp định ban giao với chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Bà cùng với các chị em kéo đến sứ quán của ta ở Nông-Pênh để trình bày hoàn cảnh và nguyện vọng. Thế là, trên chuyến phi cơ đầu tiên mở đường bay từ Nông-Pênh sang Hà Nội đã chở nặng nỗi nhớ chồng của mười ba người phụ nữ miền Nam.

Ơ Hà Nội, bà Trần Tố Linh cũng chỉ mặc duy nhất một kiểu áo bà ba. Chính hình ảnh ấy, vẻ đẹp ấy đã lý giải với mọi người xung quanh về nguồn cảm hứng sáng tạo cho bài hát nổi tiếng của nhạc sĩ Trần Kiết Tường: Chiếc áo bà ba.

Có thể nói, Hà Nội lúc bấy giờ chưa ai biết đến chiếc áo bà ba, ngọai trừ một vài phụ nữ miền Nam tập kết. Nhưng những chiếc áo tự may nầy cũng chưa tạo nên ấn tượng. Cho nên, sự xuất hiện của bà Tố Linh trong chiếc áo bà ba cùng với bài hát của nhạc sĩ trần Kiết Tường đã làm cho kiểu áo bà ba trở nên sáng giá. Người ta cảm nhận ở đó một vẻ đẹp vừa bình dị, vừa sang trọng, vừa kín đáo lại vừa hấp dẫn, một sự gợi cảm ngấm ngầm từ những đường cong trên cơ thể người phụ nữ mà không thể tìm thấy ở bất kỳ kiểu áo nào.

Như một sự vô tình, bà bỗng dưng trở thành người mẫu và cũng là người thợ đầu tiên may áo bà ba trên đất Bắc. Trong căn nhà số 27, phố Phan Bội Châu nơi bà ở, đầu tiên là những người phụ nữ miền Nam quen thân đến nhờ bà may giúp, rồi tiếp đến là những khách hàng người Hà Nội. Chẳng bao lâu bà trở thành nổi tiếng. Để tạo điều kiện cho bà làm việc, Ban Thống nhất Trung ương mở một cửa hàng may mặc Sài Thành ở phố Phủ Doãn để gây quỹ nuôi những thương binh loại nặng của miền Nam và bà Linh làm nhiệm vụ chuyên cắt may áo bà ba.

Có thể nói từ đó, từ hình ảnh của chính bà và bàn tay khéo léo của bà, chiếc áo bà ba đã xuất hiện trên đường phố Hà Nội rồi tăng lên theo cấp số nhân, lan rộng đến các vùng nông thôn miền Bắc như một làn gió mới làm thay đổi hình ảnh vốn quen thuộc của chiếc áo tứ thân. Mặc dù trong bối cảnh đất nước vừa bị chia cắt, nghèo nàn và chiến tranh, không mấy ai quan tâm đến thời trang nhưng chiếc áo bà ba vẫn được tôn vinh trên đất Bắc.

Rồi tiếp theo, những đoàn phim Chung Một Dòng Sông, Vĩ Tuyến Mười Bảy Ngày Và Đêm, Chị Tư Hậu, Nổi Gió . . . đoàn Văn Công Nam Bộ cũng mời bà may trang phục áo bà ba. Những Trà Giang, Phi Nga qua chiếc áo bà ba đã làm nổi bật tính cách của người phụ nữ miền Nam. Rồi đến bà Nguyễn Thị Bình, bà Đổ Duy Liên . . . những chính khách của Chính phủ Cách mạng lâm thời đi hội nghị nước ngoài, những đoàn văn công miền Bắc giả dạng miền Nam đi biểu diễn ở nước ngoài cũng đều giao nhiệm vụ cho bà Trần Tố Linh may áo bà ba.

Sau năm 1975, về sống ở sài Gòn, bà tiếp tục mở cửa hàng may áo bà ba cho đến ngày nghỉ hưu.

Trong những tập ảnh lưu niệm của bà Trần Tố Linh, từ thời con gái cho đến ngày tiễn chồng đi tập kết, những năm tháng sống giữa thủ đô Hà Nội, những năm tháng về Nam, cùng chồng đi khắp các vùng từ thành thị đến nông thôn, bà chỉ mặc duy nhất một kiểu áo bà ba.

Ta lại nghe những lời ca của anh Trần Thanh Bình – con trai bà Tố Linh - qua giọng ca Minh Cảnh mà cứ ngỡ như những tâm sự của nhạc sĩ Trần Kiết Tường:

-Phải chăng em từ tấm áo dạng dày bình dị nầy đây, em đã giữ lại cho anh tấm tình chung thủy. Giữ cho nhau câu thề ước hẹn, đám cưới nghèo sính lễ áo bà ba . . .

Nam bộ trãi qua một tiến trình phát triển rực rỡ của thời trang, nhưng chiếc áo bà ba vẫn luôn luôn tồn tại.

Chúng ta đã từng tổ chức những cuộc thi hoa hậu áo dài, thiết nghĩ cũng cần có những cuộc thi hoa hậu áo bà ba để tôn vinh một loại trang phục như nó đã từng tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.


PC:Bà Tố Linh qua đời cách nay hơn sáu tháng.


-->đọc tiếp...

Thứ Năm, 18 tháng 12, 2008

LƯU BÌNH - DƯƠNG LỄ THỜI SỐ HÓA




Hồi kháng chiến chống Mỹ, Lưu Bình làm du kích ấp ở Xẻo Lá, tuy không mấy thông minh nhưng nhờ có máu liều, chuyên đánh thế đội đầu đối phương nên thỉnh thoảng cũng lập được chiến công. Dương Lễ thi rớt tú tài, sợ đi lính nên tìm về quê lẩn trốn. Gặp Lưu Bình trong một trận đá gà, hai người kết nghĩa đệ huynh, có lấy kim chích máu ăn thề hẳn hoi, cả ấp Xẻo Lá ai cũng biết.

Dương Lễ có nhiều tài vặt, nhất là trong lãnh vực điện tử như sửa radio, ráp ampli làm máy truyền thanh nên dễ gây cảm tình với vùng kháng chiến, chẳng bao lâu, gã được rút vào chiến khu phụ trách công tác chuyên môn. Gọi là chuyên môn nhưng thật ra Dương Lễ chỉ làm mỗi việc sửa chữa radio cho lãnh đạo nghe đài. Công việc nhàn hạ nhưng lại quen biết với nhiều vị lãnh đạo cấp trên, bất kỳ radio của cấp trên bị hư hỏng thì dù bất kể ngày đêm, đường xá xa xôi cách mấy Dương Lễ cũng có mặt kịp thời.

Nhờ vậy mà sau giải phóng, Dương Lễ lập tức được bổ nhiệm chức giám đốc đài phát thanh, rồi dần dà ôm luôn cái đài truyền hình của tỉnh. Lễ là người có năng lực trong việc chăm sóc cho lãnh đạo cả vật chất lẫn tinh thần, từ tivi, đầu VCD hiện đại đến các chương trình giải trí, các loại . . . phim.

Khi đài phát thanh truyền hình của tỉnh được trang bị hiện đại đến mức . . . không còn gì để trang bị thêm thì Lễ thấy rằng cần phải giao cho người khác quản lý để Lễ chuyển sang đầu tư cho lãnh vực công nghệ thông tin.

Xét thấy Lễ có tài năng nên lãnh đạo giao cho Lễ lập dự án tin học hóa tỉnh nhà. Chẳng bao lâu, nhà của vị lãnh đạo nào cũng được Lễ đầu tư một máy tính để . . . trùm lên một loại khăn sang trọng.

Lễ trở thành nhân vật nổi tiếng hiện đại hóa . . . mọi thứ ở tỉnh nhà.

Phần Lưu Bình, do bệnh thành tích trong kháng chiến mà người ta hay gọi là bệnh công thần nên tỏ ra huênh hoang, hách dịch, lại thêm tật mê đá gà, rượu chè be bét. Vừa lên chức xã đội trưởng thì Lưu Bình bị đuổi việc vì mắc phải tội dâm ô, bị vợ con hành hạ, xóm làng miệt thị cộng với mùa màng thất bát liên miên, lúa khoai rớt giá, Lưu Bình trở thành tay nát rượu, chán đời.

Một hôm, tình cờ thấy Dương Lễ xuất hiện trên tivi, Lưu Bình bèn nhảy xuống tàu đò đi tìm bạn. Đến nơi, bảo vệ không cho vào cổng. Lưu Bình đứng bên ngoài gào thét. Dương Lễ bước ra dõng dạc tuyên bố:

-Ta không quen biết Lưu Bình nào cả, nếu ngươi có giỏi thì hãy học dzi tính đi rồi lên mạng chát với ta,đừng có ở đây lải nhải. Thời đại tin học, không ai nói chuyện bằng lời.

Lưu Bình căm giận đến tím ruột bầm gan, lủi thủi ra đi mà vừa khóc vừa thèm rượu.

Gã đi được một đoạn thì thấy chiếc mercedes chạy tới chặn đường, một cô gái mặc . . . quần lỡ, áo dây, đầu hai ba thứ tóc nhuộm mở cửa xe bước xuống nhẹ nhàng nắm tay gã và nhỏ nhẹ nói:

-Em chào Lưu Bình công tử !

-Nàng là ai mà gọi ta bằng công tử ? Ta chỉ là gã ăn mày.

-Em là Châu Long, là kế toán trưởng công ty Matimex của Dương Lễ.

-Vậy thì nàng hãy tránh ra !

-Không, mời chàng lên xe, em có chuyện cần nói.

Châu Long đưa Lưu Bình đến một khách sạn sang trọng. Nàng lấy ra bộ quần áo mới bảo Lưu Bình tắm rửa. Lưu Bình tuy ngạc nhiên nhưng ngoan ngoãn làm theo. Xong, nàng vừa khui chai chivas vừa bắt đầu tâm sự:

-Em vừa là kế toán trưởng, vừa là bồ nhí của Dương Lễ. Nhưng bây giờ hắn đã phản bội em, hắn mê con thư ký.

-Vậy nàng tính sao ?

-Hắn cũng phản bội chàng, cho nên em muốn hợp tác với chàng để trả thù.

Lưu Bình trố mắt:

-Trả thù ?

-Vâng. Đây là số vàng và đô-la mà em tích lũy trong thời gian sống chung với hắn. Chàng hãy cầm lấy. Còn đây là hộp OK, chàng cũng cầm để mà dùng khi hữu sự. Chúng ta sẽ đến một chân trời xa lạ để lập nghiệp, xây tổ uyên ương và lập mưu tính kế để trả thù.

Lưu Bình ôm chầm lấy Châu Long mà khóc rống lên như trẻ con. Châu Long bình tĩnh nói tiếp:

-Em sẽ lo cho chàng lấy bằng đại học để trở về trả thù Dương Lễ.

Lưu Bình hốt hoảng:

-Trời ơi ! Cái gì thì ta làm được, còn cái bằng đại học thì vô phương ! Hồi nhỏ ta chỉ biết mê đá gà chớ có học hành gì đâu.

-Không có gì khó cả, thậm chí chàng có thể lấy bằng Tiến sĩ, nếu cần.

Sáng hôm sau, Châu Long lái xe chở Lưu Bình đến một thành phố khác. Ở đó nàng mở nhà hàng karaoke kiêm tắm hơi và vật lý trị liệu ( thiên hạ đồn nói Châu Long mở quán gấm đầu làng là sai sự thật, tác giả có đến đó hát và mat-xa hẳn hoi ). Lưu Bình lúc nầy tỏ ra phong độ khác thường. Mỗi tuần ba ngày, chàng đến trung tâm giáo dục thường xuyên để học lớp cử nhân quản trị kinh doanh, hệ tại chức. Buổi tối, chàng đến trung tâm tin học để học các chương trình căn bản. Đêm về, chàng thực hành trên . . . máy, cả phần cứng, phần mềm. Thỉnh thoảng, chàng cùng Châu Long lên mạng, vào trang web play boy.com để xem . . . thời sự.

Thời gian trôi qua cũng nhanh, chỉ mới hết vài hộp OK thì chàng đã công thành danh toại.

Nhưng lạ thay, hôm chàng đi lấy bằng cử nhân trở về thì nhà hàng Châu Long đã biến đi đâu mất, thay vào đó là tấm bảng tổ bố ghi tên công ty trách nhiệm hữu hạn tin học LƯU BÌNH. Rất đỗi ngạc nhiên, chàng bước vào thì có mấy em mặc áo hai dây lễ phép khoanh tay “ chào sếp”. Chàng chạy thẳng lên lầu, cửa phòng vẫn mở nhưng Châu Long đâu không thấy, chỉ thấy một phong bì đỏ rất to. Chàng vội mở ra xem. Một tờ giấy phép thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn đứng tên chàng. Mấy dòng chữ của Châu Long ghi địa chỉ mail chaulong@yahoo.com và hẹn giờ lên mạng chat.

Không hiểu gì cả. Nhưng đúng giờ, chàng cũng mở mạng thử xem.

-Lưu Bình đây, Châu Long nàng đang ở đâu, nàng làm cái trò gì mà kỳ cục zdậy ?

-Kính chào Lưu huynh, hiền đệ đây, Dương Lễ đây !

-Nhà ngươi . . .

-Đừng ngạc nhiên, Lưu huynh còn nhớ hôm ấy khi đuổi huynh ra khỏi cổng, đệ có bảo rằng huynh hãy đi học dzi tính đi rồi lên mạng chat với đệ, bây giờ thì huynh thành công rồi ( thiên hạ đồn rằng Dương Lễ bố thí cho Lưu Bình trái cà thiu và tô cơm hẩm là sai sự thật, vụ nầy có Châu Long làm chứng ).

-Nhà ngươi . . . Thế còn Châu Long của ta ?

-Châu Long là vợ của hiền đệ, là em dâu của Lưu huynh. Cô ấy vâng lệnh em mở quán bia ôm để lo cho hiền huynh ăn học.

-Trời ơi ! Nhưng mà ta đã lỡ . . .

-Em biết rồi, Lưu huynh đừng lo. Thời số hóa mà, nàng cũng giống như phần mềm ứng dụng vậy thôi, bị virus thì ta có chương trình để diệt, bị lỗi thì ta cài lại phần mềm khác, lỗi nhiều nữa thì ta cài lại windows, có sao đâu ( thiên hạ đồn Châu Long từng nói với Lưu Bình rằng Chàng chưa thi đỗ thì chưa động phòng là sai sự thật, bằng chứng là mấy hộp OK ).

-Ta vẫn chưa hiểu, còn cái công ty của ta thì sao ?

-Vấn đề là ở chỗ đó. Em trả ơn cho đại huynh chỉ là chuyện nhỏ, đầu tư cho huynh làm ăn mới là chuyện lớn. Số là, tỉnh ta giao cho em lập dự án đầu tư xây dựng trung tâm công nghệ phần mềm. Em với Châu Long đang đau đầu vì chuyện tìm đối tác để lập công ty sân sau thì bất ngời Lưu huynh xuất hiện. Em bàn với Châu Long bèn lập kế lo cho huynh ăn học . . .

-À, ta hiểu rồi . . .

-Vậy thì, từ nay em là bên A, còn Lưu huynh là bên B.

Bỗng Lưu Bình nổi hứng lên, vừa chát vừa hát:

Bên A là chùm khế ngọt

Bên B trèo hái mỗi ngày

Bên A tràn đầy bổng lộc

Hợp đồng ta ngắt làm hai . . .

-->đọc tiếp...

Thứ Sáu, 12 tháng 12, 2008

TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH




Quốc mồi


Một hôm, đám gia súc gia cầm gom vào chuồng trâu để họp, tự phê bình và phê bình nhằm củng cố trật tự, kỷ cương, xây dựng tinh thần đoàn kết nội bộ. Gà trống tự phê trước:

-Tui thấy tui hổng có thiếu sót gì hết, ngược lại toàn ưu điểm. Tui không phá phách của ai, không ăn vụn ăn trộm của ai, suốt ngày bươi đống rơm, gốc cây kiếm côn trùng để sống, hàng ngày, cứ 5 giờ sáng là tôi cất tiếng gáy để báo thức cho mọi người . . .

Trâu đực nói chen vào:

-Phải rồi, anh gáy hay, tốt tướng, đẹp trai, hào hiệp thế nên đàn bà trong xóm nầy anh luộc sạch. Ngày nào mà tui không thấy cái cảnh ấy ở chỗ bụi chuối, đống rơm.

Gà trống cụt hứng, vừa thụt cổ, vừa lẩm bẩm:

-Cái vụ nầy là do thỏa thuận chớ tui có ép ai.

Đến lượt chó mực tự phê:

-Tui thì các anh biết rồi, nổi tiếng là có truyền thống trung thành với chủ. Về thành tích mà nói, cái nhà nấy không có tui là các anh chị gà, heo còn bị bọn trộm vào tóm cổ chớ đừng nói chi của cải tiền bạc. Công cán tui là thế nhưng tui được gì ? Theo chủ đi bắt chuột cả ngày, bụng đói lả, về nhà chủ làm chuột chiên vàng nghế, thơm phức, thấy thèm đến chảy nước bọt nhưng có dám rớ con nào. Chủ ngồi nhậu, mình ngồi chờ ổng cho từng miếng xương. Đấy, cái thân phận của chó chực xương là thế. Nhiều khi chủ nổi giận, ổng đánh, ổng đuổi đi, nhưng đi loanh quanh vài ngày rồi cũng quay về để tiếp tục làm tôi tớ. Hễ chủ đi đâu thì tui lội theo bảo vệ. Hôm trước có lần đi theo ổng, tưởng ổng đi đâu, ai dè ổng ra bến xe đò rồi lên xe đi mất. Tui thui thủi lội về, đi lạc cả ngày vì xưa nay mình có ra chợ đâu. Mấy anh biết hôn, đi lạc, bụng đói, thấy đồ ăn người ta bán đầy đường mà mắc thèm. Lúc ấy, có mấy thằng – mà tui nghi là bọn tư sản – nó đem đùi gà nướng ra dụ tui, nó bảo về chợ ở với nó đi, mỗi ngày nó cho ăn một dĩa cơm gà, nhưng tui đâu có chịu . . .

-Đủ rồi – trâu đực cắt ngang – anh ỷ anh trung thành, anh ỷ anh có công nên đụng tới anh là anh hùa cả bầy ! Tui nè, xin lỗi các anh, nếu không có dòng họ nhà tui thì làm gì có được cái nền nông nhiệp hùng cường như hôm nay. Cày, bừa, trục, cộ lúa, đạp lúa, bao nhiêu công việc nặng nhọc cũng trút xuống cái kiếp trâu nầy, vậy mà hở một chút là roi vô đít. Làm thì làm ra lúa, mà ăn thì ăn cỏ ăn rơm . . .

Chó mực trả đũa:

-Bởi vậy nên anh mới có tư tưởng công thần. Cái mặt lúc nào cũng hầm hầm, chưa bao giờ tui thấy anh cười với ai cả.

Gà trống chen vào, giọng mai mỉa:

-Có, có một lần tui thấy ảnh cười. Hôm ấy tui núp trong đống rơm, thấy ảnh thè lưỡi liếm cái gì dưới cạnh đuôi chị trâu cái í, xong ảnh ngửa mặt lên trời, nhe miệng cười sung sướng, nước bọt chảy ròng ròng.

Cả bọn cười rộ lên, trâu đực mắc cỡ cuối gầm xuống, lẩm bẩm chửi thề:

-Mẹ nó, chuyện riêng tư của người ta mà cũng bươi móc cho được ! Đúng là thứ gà bươi !

Đến lượt quốc mồi tư phê:

-Tui thì khác với mấy anh, nhờ có tiếng kêu tốt nên gài được nhiều quốc rừng cho chủ. Từ ngày về đây, tui thấy mình hạnh phúc, khỏi phải tha phương cầu thực, khỏi cực nhọc mưu sinh. Mọi thứ chủ lo hết, tui biết chủ cưng tui, từ việc chọn gỗ tốt để đóng cho tui chiếc lồng thật đẹp đến việc chọn những bông lúa tốt cho tui ăn, thậm chí chủ còn tắm cho tui . . .

Chim sâu đậu bên ngoài, nghe vậy bay vào nói:

-Xin lỗi các anh, tui không phải là thành phần trong cuộc họp, nhưng xin có ý kiến với anh quốc mồi một tí.

-Ê, cái thằng nhải ranh vô dụng kia - quốc mồi nói – cái đồ tự do vô tổ chức kỷ luật kia, ai cho mầy có ý kiến với cái chỗ nghiêm túc nầy ?

-Xin lỗi anh, giữa cái tự do vô tổ chức kỷ luật của tui với cái thân chim lồng cá chậu của anh thì ai sướng hơn ai ? Giữa cái vô dụng của tui với cái sự dùng tiếng kêu tốt của mình để lường gạt, để gài bẫy giết hại đồng loại của anh thì đâu là vinh, đâu là nhục, đâu là thiện, đâu là ác ? Vậy mà cũng vênh cái mặt lên mà tự hào. Chúc anh ở lại trong cái lồng son của anh mà tiếp tục đi giết hại đồng loại, tui về về khoảng trời mênh mông của tui mà tha hồ ca hát.

Nói xong, chim sâu bay cái vèo ra cửa. Cả bọn ngơ ngác nhìn theo rồi nhìn sang quốc mồi. Quốc mồi co cổ lại và rơi hai hàng nước mắt.

-->đọc tiếp...

Thứ Ba, 9 tháng 12, 2008

KÉT NGU HƠN BÒ





Một hôm nọ, Hiệp hội gia súc gia cầm tổ chức cuộc thi ngu, con nào ngu nhất sẽ được thưởng một cục tiền và được ghi vào sách kủ lục ngu thế giới. Được tin, bò đực hí hửng đi thi. Ra khỏi chuồng, hắn ta nghinh mặt với vợ: “Kỳ nầy cho mầy biết sự sang trọng của thằng ngu nầy như thế nào để mầy hết khinh khi tao”.

Thế nhưng chiều về, mặt hắn ta bí xị. Bò cái hỏi :

-Thế nào, có được giải không ?

-Được, nhưng giải nhì.

-Thế ai giải nhất ?

-Con két.

Bò cái nổi giận:

-Con két làm sao mà ngu hơn ông được ? Chắc là ban giám khảo gian lận rồi. Sao ông không khiếu nại ?

-Sao mầy biết tao không khiếu nại ? Nhưng đành chịu thôi.

-Sao lại đành chịu ?

-Ban giám khảo nói tao tuy ngu nổi tiếng, ai cũng biết. Nhưng ít ra tao còn có cái chính kiến của tao. Còn con két, tuy nó ăn nói lưu loát nhưng chỉ lặp lại tiếng nói của người khác, bản thân nó không nghĩ ra được câu nói nào. Họ nói vậy làm sao tao cãi được.

Bò cái trầm ngâm một chút rồi giận lẩy bỏ đi, miệng lầm bầm:

-Vậy thì từ nay đừng ai nói câu ngu như bò nữa ! Oan cho ông lắm !

-->đọc tiếp...

Thứ Bảy, 6 tháng 12, 2008

TRỞ LẠI HỒ TRỊ AN




Chị Tưởng bên nghĩa trang những người khẩn hoang chết vì sốt rét rừng









Trở lại hồ Trị An gặp lại chị Tưởng, chị cho hay, hôm rồi Tòa xử ông Nguyễn Hoàng Huynh, nguyên bí thư huyện Vĩnh Cửu cùng với năm sáu cán bộ huyện về tội sai phạm trong quản lý đất đai, tất cả đều bị kết án tù giam. Nhưng đất của chị bây giờ vẫn chưa được trả.
Xin post lại một câu chuyện cũ.


NỖI NIỀM SINH TỬ BÊN RÌA

“CÔNG THỔ QUỐC GIA”

Tôi hẹn với chị Tưởng và anh Minh trong quán thịt rừng, quán rất yên tĩnh nằm trong khu vườn nhỏ bên bờ hồ Trị An. Mưa chiều lất phất. Chúng tôi ngồi trong căn chòi lá với chiếc bàn đá và ghế đá đơn sơ. Chủ quán giới thiệu thực đơn tòan đặc sản rừng: chồn, nhím, nai, cheo, heo rừng . . . Chị Tưởng nói chỗ chúng tôi đang ngồi, cách đây ba mươi năm là rừng già, thú rừng chạy lọan xạ, cây rừng to đến hai ba tay ôm.

Anh Minh rót rượu, chúng tôi chạm ly, chị Tưởng cũng uống ngon lành. Chị nói khỏang mười năm trước, lúc mới bị chồng bỏ, chị nhậu dữ lắm, một mình uống cả lít không say.

-Tôi tuổi Sửu nên cực như trâu là phải. Ngày xưa trên mảnh đất nầy, tôi là con trâu cái, anh Minh là con trâu đực. Cả làng ai mà chẳng biết, cứ sáng ra là tôi với anh Minh đặt chiếc ách lên bụng, quàng sợi dây thừng lên vai như hai con trâu khom lưng kéo, mẹ tôi cầm cày đi sau. Nhớ lại hồi ấy, cực khổ, đói rách vậy mà vui. Sáng ra đồng kéo cày, chiều về họp tổ bình công, tối chơi văn nghệ. Tôi rất mê bài Khúc hát người đi khai hoang: Ta đốt lửa cho rừng khuya ấm mãi . . . hò ơ . . . ta về đây phá rừng hoang, gió mơn man câu hò từ lán mới, vui rộn tiếng cười tươi trẻ trên nương . . .

Tôi hỏi sao chị với anh Minh không thành vợ chồng, chị nói: “ Tôi cũng chẳng hiểu sao, cả hai chúng tôi không hề nghĩ tới điều đó. Thậm chí anh Minh hẹn với bồ trong rừng, ảnh bảo tôi theo giữ ma, tôi cũng theo ngồi canh cho hai người tâm sự. Mà dường như tôi không có cái thời con gái để yêu đương. Anh Minh hồi ấy cứ gọi tôi bằng thằng cu dù lúc đó tôi đã mười tám tuổi. Có lẽ tại vì người tôi đen đúa, to cao như con trai, suốt ngày mặc bộ đồ may bằng bao cát Mỹ lòng thòng luộm thuộm chẳng giống ai nên anh Minh ảnh chê.

Tôi hiểu chị Tưởng nói vậy không phải ngầm ý trách anh Minh. Ơ đời, đâu phải hể cứ đồng cam cộng khổ là đi đến chuyện vợ chồng. Anh Minh bây giờ vẫn gọi chị Tưởng là mầy tao, thậm chí có khi to tiếng như anh cả trong nhà. Hai người chẳng phải đồng hương, chị Tưởng quê Quảng Trị, anh Minh ở Quy Nhơn, năm 1972, chiến tranh tàn khốc, họ theo dòng người chạy lọan vô Sài Gòn, sống lây lất trên các hè phố cho đến ngày hòa bình rồi cùng với hàng trăm hộ dân trên mọi miền đất nước kéo nhau về đây phá rừng, khẩn hoang theo chủ trương xây dựng vùng kinh tế mới.

Chị Tưởng kể, hồi ấy nơi đây là rừng nguyên sinh, nổi tiếng là rừng thiêng nước độc. Để trồng được cây lúa, củ khoai, cây bắp trên mảnh đất nầy, con người phải trả một cái giá vô cùng cay đắng. Trước hết là cái ăn cái mặc, thời ấy, những người an cư ở thành phố còn phải xếp hàng mua từng ký gạo, mét vải, cục xà bông . . . huống chi những con người tứ cố vô thân đi xây dựng vùng kinh tế mới. Năm đầu tiên đến đây, sau khi dựng chòi lập nghiệp, họ phải mua chịu từng ký khoai mì của dân địa phương các vùng lân cận để ăn thay cơm, gạo phân phối lúc ấy, dù là gạo ẩm nhưng cũng chỉ dành để nấu cháo cho người già và trẻ con. Củ mì, dù được chế thành nhiều món như luộc, nướng, hấp, chiên nhưng vẫn là mì, ăn hòai không biết chán, mà dẫu có chán cũng phải ăn, thậm chí đến vỏ khoai mì cũng phải tận dụng làm dưa chua để ăn dù biết trong đó có nhiều độc tố. Cái ăn là vậy, còn cái mặc cũng chẳng giống người: quần áo được may bằng bao cát Mỹ. Đêm lạnh thì lấy bao bố kết lại làm mền.

Đói rách là vậy nhưng đó chưa phải là nỗi khổ tận cùng. Chị Nguyệt – người chị lớn của chị Tưởng – trong lúc phá rừng, chị giơ cao cây rựa chặt vào nhánh kè, nhánh kè có hai hàng gai bén như răng cưa từ trên cao rớt xuống cứa ngang đầu chị, tét một đường dài, máu tuôn xối xả, để lại vết thẹo suốt đời. Anh Hòang Minh bị vắt chui vào đường tiết niệu, mấy tháng sau phải cắt bỏ dương vật vì họai tử, nhưng vẫn không khỏi, một thời gian sau anh nghe ngứa ngáy và đau đớn trong nội tạng, bụng to dần lên. Nằm bệnh viện Đồng Nai không chữa được, họ chuyển anh ra viện Ung bứu. Khi giải phẩu mới hay rằng lũ vắt đã sinh sản đầy trong hai quả thận của anh. Hòang Minh qua đời chưa được bao lâu thì người anh trai của anh – anh Hòang Ngọc – lại chết vì sốt rét. Ông Nguyễn Văn Liêm trong khi đang làm rẫy thì bị cây đè. Từ chổ nhà ông, người ta đặt ông lên võng khiêng đi gần mười cây số mới ra đường cái, tới trạm y tế xã. Từ trạm y tế xã, đợi đến chiều mới có một chuyến xe đò, nhưng chiếc xe chạy bằng than đá bò lê trên con đường đất đỏ gồ ghề, đến Trảng Bom thì ông Liêm tắt thở.

Chị Tưởng nói, nỗi ám ảnh lớn nhất, kinh hòang nhất của người dân khai hoang ở đây là sốt rét. Cũng như trường hợp của ông Liêm, mỗi lần có bệnh nhân lên cơn sốt thì người thân hoặc láng giềng khiêng đi bằng võng gần mười cây số ra trạm y tế xã, có khi khiêng đi nửa đường thì phải khiêng về vì bệnh nhân đã chết. Chưa có con số thống kê chính xác về người chết vì sốt rét nhưng dấu ấn của thảm họa nầy đã hình thành cả một nghĩa trang, có những gia đình có đến hai, ba người nằm xuống vì sốt rét rừng. Và ngay cả những người đang sống, sốt rét kinh niên đã làm cho họ không thể lập gia đình như chị Nguyễn Thị Tâm, nhà có năm chị em nhưng người em trai chết vì sốt rét, còn lại bốn chị em gái gần năm mươi tuổi nhưng vẫn sống cô đơn vì sốt rét đã đeo bám họ đến suốt cuộc đời.

Chồng chị Tưởng – anh Nguyễn Quang Hưng cũng chết vì sốt rét, bỏ lại hai đứa con gái. Nhưng bi thảm hơn, vài tháng sau một trận hỏa họan đã thiêu trụi căn nhà của chị. Chồng chết, nhà cháy, tay trắng, chị Tưởng gạt nước mắt ẳm hai đứa con đi tá túc bên nhà của người chị ruột giữa một biến cố xảy ra làm xôn xao vùng kinh tế mới: Tỉnh Đồng Nai ra quyết định tạm giao 480ha đất của dân kinh tế mới cho Ban quản lý công trình thủy điện Trị An làm kho bãi tập kết vật tư thiết bị, nhà xưởng, lán trại để phục vụ cho công trình.

Thế là, vừa an cư lạc nghiệp mấy năm lại phải di dân. Mỗi hộ được cấp lại 1500 mét vuông để tái định cư, còn đất sản xuất nông nghiệp coi như mất trắng. Nhưng, hầu như ai cũng xem đó là nghĩa vụ của mình trước một công trình vĩ đại của quốc gia. Trị An thời bấy giờ như một tiếng gọi thiêng liêng, như mệnh lệnh, cả nước hướng về Trị An, đến văn nghệ sĩ sân khấu nổi tiếng cũng đi lưu diễn khắp nơi để bán vé thu tiền đóng góp cho Trị An . . . Vì thế mà những người dân dù phải mất đất, dù phải lên rừng đào vàng, lấy nhựa chai hay phải đi làm thuê, bán vé số để kiếm sống qua ngày, trong lòng họ vẫn còn chút an ủi là mình đã đóng góp một phần cho dòng điện Trị An.

Một tuyến đường nhựa từ Bùi Chu băng rừng lên Trị An, khu kinh tế mới Cây Gáo, một vùng rừng thiêng nước độc được nâng lên thành thị xã Vĩnh An. Nhưng dân khai hoang, những người đã đổ mồ hôi và xương máu để tạo nên mặt đất nầy bị đẩy lên hậu đất, gần giáp bìa rừng vì chính quyền địa phương cho rằng họ là dân tứ xứ, không rõ nguồn gốc, cần phải đẩy vô trong để bảo đảm an tòan cho các chuyên gia Liên Xô và tài sản xã hội chủ nghĩa. Khi người dân hiểu ra rằng đó là lý do để cán bộ địa phương chiếm đất mặt tiền thì những xung đột cũng bắt đầu.

Bà Ngô Thị Cón từ Quảng Trị dẫn tám người con vào đây khai phá, có ba người con trai đã chết vì sốt rét rừng. Khi con đường nhựa cắt qua thửa đất của bà, bà dựng lại căn nhà mặt tiền trên phần đất còn lại, chính quyền cho công an đến giải tỏa, bà cùng con gái, con dâu cầm rựa ra tử thủ. Nhưng tất cả đã bị bắt giam vì tội chống thi hành công vụ. Trường hợp chị Tưởng cũng tương tự như vậy, sau thời gian tá túc bên nhà người chị ruột, chị xin một lô đất của người bạn để cất tạm một căn chòi. Khi con đường bê tông chuyển thành đường nhựa, lập tức chị bị chính quyền ra quyết định giải tỏa. Khi lực lượng công an đến, một tay chị ẳm con, một tay cầm rựa, chị nói: “Tôi coi như không còn gì để mất, các anh bước tới là tôi chém”.

May thay, chị đã giữ được cái nền nhà mà không phải đi tù.

*

Chị Tưởng lục từ trong tủ ra một đống hồ sơ, giấy tờ có liên quan đến cuộc hành trình hai mươi năm đi kiện. Tất cả có thể vài ba ký lô, riêng hóa đơn phát chuyển nhanh của bưu điện mà chị giữ lại sau mỗi lần gởi đơn thư cũng lên đến hai chồng dầy cộm, ước chừng cũng hơn một ký. Chị nói : “ Đi kiện đến nỗi bị chồng bỏ mà cũng chưa xong, chừng nào tôi còn sống là còn đi đòi lại sự công bằng. Bà Cón ở đằng chợ cũng vậy, đời mẹ đi kiện đến gối mỏi chân mòn rồi đến đời con”.

Năm 1987, chị Tưởng tái giá với anh Thoa, công nhân lái xe cơ giới, sinh thêm hai đứa con trai. Cuộc hôn nhân thứ hai sẽ êm đềm hạnh phúc nếu như không có những bất công, oan trái sau nầy.

Khi cả nước reo mừng cùng Trị An, trẻ con khắp nơi vỗ tay hô “ Có điện ! Có điện !”, người dân khai hoang ở Vĩnh An vừa tự hào vì sự đóng góp của mình, vừa hy vọng được trở lại với mảnh vườn thửa ruộng, với nương rẫy mà mình đã đổ bao nhiêu nước mắt, mồ hôi và xương máu, sẽ được nhận những lời cảm ơn nồng nàn của những người mượn đất để xây dựng công trình. Nhưng không, họ không được thừa nhận là chủ đất. Tất cả đơn thư khiếu nại đòi lại đất đều được trả lời ngắn gọn rằng đất bây giờ là công thổ quốc gia, không ai có cơ sở pháp lý để đòi lại. Đất đô thị sẽ được quy họach làm đô thị, đất nông nghiệp sẽ giao cho kiểm lâm quản lý để phủ lại rừng.

Thị xã Vĩnh An sau đó đổi thành thị trấn Vĩnh An thuộc huyện Vĩnh Cửu. Nhưng dù là thị xã hay thị trấn thì bộ mặt đô thị cũng đã hình thành, đất đai không còn lạnh lùng như cái thời rừng thiêng nước độc. Gọi là công thổ quốc gia, những người khẩn hoang bị cho rằng không có cơ sở pháp lý để đòi lại đất, cứ ngày nầy qua tháng nọ họ ngậm đắng nuốt cay nhìn người ta dùng quyền thế để phân phát cho nhau trên mảnh đất của mình. Từ ủy ban huyện, công an, huyện đội, ủy ban thị trấn, nhà máy thủy điện, xí nghiệp thủy lợi, công ty xây dựng, lâm trường, hạt kiểm lâm . . . tất cả các cơ quan đóng trên địa bàn nầy đều có quyền ký giấy cấp đất cho cán bộ công nhân viên và người thân của họ. Tự do phân phát, tự do lấn chiếm, tự do sang bán để trục lợi .

Chị Tưởng dẫn tôi đi một vòng quanh thị trấn, bên cạnh nghĩa trang của những người bị sốt rét rừng là trang trại 14 mẫu của ông Đỗ Hữu Tài, phó giám đốc sở giáo dục tỉnh Đồng Nai; phía bên kia là 3,5 mẫu vườn của ông Nguyễn Hòang Huynh, bí thư huyện ủy; còn bên nầy, giáp với hồ Trị An là khu nhà hàng, khách sạn 1,5 mẫu của ông Hùynh Văn Hòang, giám đốc công an tỉnh Đồng Nai. Tôi hỏi chị Tưởng về phần đất của chị, chị nói chị có gần 1,5 mẫu, trong đó hơn 3.000 mét vuông đất thổ cư, phần đất thổ cư trước đây là khu nhà tập thể của công nhân xí nghiệp xây dựng thủy lợi 4, sau khi công trình thủy điện hòan thành, chị làm đơn xin lại đất thì mới hay người ta đã cấp cho hai cán bộ của xí nghiệp. Phần đất rẫy của chị hơn một mẫu, trước đây tạm làm kho bãi của công trình, sau đó chính quyền địa phương cấp cho công an thị xã làm kinh tế phụ, bây giờ trở thành đất thổ cư của các gia đình cán bộ công an.

Chúng tôi trở ra con đường chính của thị trấn rồi rẽ sang bên trái. Chỉ tay về một ngôi biệt thự to đùng giữa vườn cây ăn trái mệnh mông, chị Tưởng cho biết đây là nhà của ông Nguyễn Ngọc Chiến, nguyên chủ tịch ủy ban thị trấn, vừa mới bị bắt giam vì tội cố ý làm trái gây hậu quả nghiêm trọng trong quản lý đất đai. Khác với nhiều cán bộ khác bao chiếm đất nông nghiệp của dân để làm trang trại, ông Chiến thâu tóm hơn 16 ngàn mét vuông đất mặt tiền nội ô thị trấn, tòan những vị trí đẹp nhất.

Gần mười năm làm chủ tịch thị trấn, ông Chiến được xem như là vua đất đai ở Vĩnh An. Được sự đỡ đầu của ông Nguyễn Hòang Huynh, chủ tịch huyện, ông Chiến lập quy họach các khu dân cư hàng chục ngàn mét vuông để phân lô bán nền. Với tư cách là chủ tịch ủy ban kiêm chủ tịch hội đồng xét duyệt cấp đất đai, ông Chiến đã trọn quyền ban phát cho mình, cho vợ, cho con, cho em út và những người thân để sang bán làm giàu. Chỉ cần có chữ ký của ông Chiến chuyển lên huyện là ông Huynh cấp sổ đỏ, bất kể đất ấy có nguồn gốc từ đâu. Người dân Vĩnh An dường như ai cũng biết một câu chuyện tưởng như đùa nhưng lại là có thật: Trong một tiệc nhậu, ông Chiến cụng ly nói với một cán bộ ngồi đối diện: “ Mầy vô hết một trăm phần trăm, tao cho mầy hai cái nền nhà”.

Chị Tưởng nói những năm ấy chỉ cần được lòng ông Chiến là có đất, ngay như ông Nguyễn Ngọc Cung, em ruột ông Chiến cũng được cấp gần 10 ngàn mét vuông, ông Ngô Ngọc Nghinh, trưởng khu phố 8 cũng được gần 20 ngàn mét vuông, có sổ đỏ hẳn hoi, ông Nghinh cắt ra hơn hai ngàn mét vuông phân thành bảy lô bán cho bảy hộ khác, thu lợi hàng trăm triệu đồng.

Người dân khai hoang kéo nhau đi kiện, nhưng tất cả chỉ là chuyện nước đổ lá môn. Chỉ có chị Tưởng là kiên trì. Chị đi làm mướn làm thuê, làm cả ngày lẫn đêm để ky cóp từng đồng làm lộ phí đi kiện. Tiền ít thì đi Đồng Nai, khá một chút thì đi Sài Gòn, khá một chút nữa thì nhảy lên tàu đi Hà Nội. Anh Thoa chồng chị khuyên lơn, ngăn cản không được, cuối cùng, không thể chịu đựng nổi người vợ suốt tháng quanh năm chỉ lo kiện cáo, anh bỏ nhà đi.

Bị chồng bỏ, mang thêm hai đứa con, nỗi oan mất đất vốn đè nặng tâm can giờ chồng thêm gánh nặng gia đình. Sáng ra, nhổ vội củ mì sau nhà cắt ra bốn khúc hấp chín phát cho bốn đứa con đi học, rồi chạy ra đồng rẫy hái bắp thuê, được năm bảy ngàn đồng, buổi chiều chạy lên khu vực hồ Mã Đà dọn cỏ hồ cá, cũng kiếm thêm được năm bảy ngàn. Tối về đạp xe chở nước đá bỏ mối cho các hàng quán trong thị trấn. Rồi một đêm nằm ngủ, chị phát hiện mùi thúi bốc lên từ bàn chân ê ẩm của mình. Đó là hậu quả của công việc dọn cỏ, chị phải dùng rựa để chém những cây mắt mèo dầy đặc mọc lên từ dưới đáy hồ, sau đó dùng chân đạp vùi chúng xuống bùn, bàn chân ngâm nước đã mềm phải giẫm lên cây những đầu cây nhọn hoắc. Làm lụng suốt ngày chị không chú ý, đến khi cảm giác được mùi thúi thì mới biết hai bàn chân mình đã lở lóet,tưa tải thịt da. Không có tiền mua thuốc, chị nấu một thau nước muối mang ra ngồi ngâm trong đêm tối. Xót xa và đau đớn.Nỗi khổ nhọc cộng thêm nỗi đau đời đã đẩy chị vào những cơn say khướt mướt. Nhiều đêm sau khi bỏ mối xong nước đá, chị mua một lít rượu trong bọc ni lon, một tay lái xe, một tay cầm bọc rượu, cắn một góc cho rượu chảy ra rồi uống khan một mình, uống cho quên đi chuyện nhân tình thế thái, uống cho say không còn biết trời đất là gì. Rồi chị lọang chọang đạp xe về trong bóng đêm. Về đến nhà, gặp con chị đánh con, gặp đồ chị đập đồ. Cứ thế cho đến một đêm nọ, cũng trong một cơn say quằn quại về nhà, bất chợt chị thấy bốn đứa con chị ôm nhau ngồi thu mình trong một góc giường, đứa lớn đưa lưng ra ngòai như chở che cho đứa nhỏ, mặt mày chúng vừa sợ hãi, ánh mắt như van xin. Lúc ấy, tình mẹ trong chị bỗng dưng thức dậy lấn át cơn say, chị nhào đến ôm con, vừa khóc vừa xin con tha thứ. Từ đó, chị không còn uống rượu nữa.

Nói về anh Minh. Ngay từ năm đầu tiên giao đất cho nhà nước, là người có chút ít chữ nghĩa, anh lên làm việc trên lâm trường Hiếu Liêm. Mười năm sau trở về, thấy cảnh chị Tưởng đi kiện trong sức yếu thế cô mà quan chức địa phương thì càng ngày càng lộng hành xâu xé đất đai. Anh Minh bàn với chị Tưởng, nếu tiếp tục đi khiếu nại đòi lại đất thì chẳng bao giờ có kết quả. Tốt nhất là đi tố cáo những hành vi phạm pháp của các quan chức, phải đẩy họ ra khỏi phạm vi quyền lực thì mới có cơ may đòi lại sự công bằng.

Chị Tưởng tự trang bị cho mình máy ảnh, máy ghi âm để đi điều tra giống như thám tử. Những tin tức thu được chị mang về cho anh Minh viết đơn tố cáo. Không ít lần chị bị ăn đòn vì rình mò sau hè nhà người ta để đặt máy ghi âm. Nhưng việc làm của họ không phải không mang lại kết quả: báo chí vào cuộc, thanh tra vào cuộc, sáu cán bộ huyện gồm bí thư, chủ tịch, chánh thanh tra, trưởng phòng địa chính, trưởng phòng tài chính, trưởng phòng kinh tế đã bị cách chức, ông Chiến, chủ tịch thị trấn và ông Sơn, cán bộ địa chính thị trấn vừa bị bắt giam.

Chị Tưởng vừa sắp lại hồ sơ, vừa nói: “ Hôm công an bắt ông Chiến tôi không hay, nếu hay được tôi sẽ mang máy đến chụp hình. Chiếm đất cho nhiều rồi cuối cùng vô ở trong mấy mét vuông. Lòng tham đã làm cho con người ta ngu muội đến thế là cùng”. Tôi hỏi dự định sắp tới chị làm gì ? Chị nói : “ Tôi sẽ kiện ra tòa để đòi lại đất. Anh Minh đã nói đúng, đây không phải là chuyện khiếu nại, kêu oan mà là cuộc đối đầu giữa cái thiện và cái ác. Chỉ có đánh đổ cái ác thì mới mong tìm lại sự công bằng”.

-->đọc tiếp...

Thứ Tư, 3 tháng 12, 2008

CHIẾU CÀ MAU




Quê ngoại tôi ở làng chiếu Tân Thành, bên bờ sông Cái Nhúc, vùng ngoại ô thành phố Cà Mau. Mẹ tôi, chị tôi, mấy dì tôi, nói chung là cả dòng họ bên ngoại tôi đều là thợ dệt. Vì vậy mà hai tiếng quê hương đối với tôi cũng đồng nghĩa với không khí và hình ảnh của một làng nghề. Tôi xa quê gần hai chục năm, thời gian và cát bụi thành thị đã làm cho hình ảnh xóm làng chìm dần trong ký ức, vải drap và nệm muosse đã làm cho tôi quên đi manh chiếu quê nghèo.

Thế rồi một buổi sáng tình cờ, chị Năm Niêm - Giám đốc Sở Thương mại Cà Mau - gặp tôi trong quán cà phê, chị nói : Hôm nay trong Hội chợ có tổ chức cuộc thi dệt chiếu, bốn mươi thợ dệt từ các làng chiếu được tuyển về, vui lắm, vào chơi ! Tôi vội vã đi ngay và bỗng thấy lòng nôn nao như đi tìm lại một cái gì thân thiết.

Làng chiếu đây rồi ! Hai mươi khung dệt được xếp theo từng hàng dưới những mái lều trong Hội chợ. Bốn mươi thợ dệt cùng hàng trăm cổ động viên từ các làng chiếu Tân Thành, Tân Lộc, Tân Duyệt, Tân Hưng, Cả Giữa đã tạo nên hương sắc độc đáo của một làng nghề không lẫn vào đâu được giữa chốn Hội chợ phồn hoa.

Chiếu Cà Mau nhuộm màu tươi thắm.

Công tôi cực lắm mưa nắng dãi dầu.

Chiếu nầy tôi chẳng bán đâu.

Tìm cô không gặp, tôi gối đầu mỗi đêm.

Ghe chiếu Cà Mau đã cắm sào bên bờ kinh Ngã Bảy sao cô gái năm xưa chẳng thấy ra . . . chào !

Có lẽ trong chúng ta – người dân Nam bộ – không ai không biết đến bài ca Tình anh bán chiếu nổi tiếng của Viễn Châu qua giọng ca của nghệ sĩ Út Trà Ôn. Bài ca ấy đã góp phần tôn vinh và tạo nên ấn tượng sâu sắc, đậm đà cho nghề dệt chiếu – chiếu Cà Mau !

Con người Việt Nam, ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời đã được nằm trên manh chiếu nhỏ. Khi trưởng thành, đến ngày cưới, lòng nôn nao đi chọn đôi chiếu Tân hôn. Và đến khi lìa đời, thân xác cũng được tẩm liệm bằng đôi chiếu mới. Nghĩa là suốt cuộc đời gắn liền với chiếu, nhưng lại có mấy ai hiểu được cái nắng mưa, cực nhọc của người thợ dệt tảo tần làm ra đôi chiếu.

Tôi tìm đến làng chiếu Tân Thành trong Hội chợ để tìm lại kỷ niệm của quê nhà, gặp chị Bé và chị Dung, nhắc lại một hồi lâu mới nhận ra nhau. Chị Bé nói làng chiếu Tân Thành bây giờ không còn nhộn nhịp như xưa, bởi vì chiếu đang từng ngày rớt giá. Gia đình chị mỗi năm chỉ dệt vài trăm đôi, chủ yếu là chiếu lảy chữ và chiếu hoa theo đơn đặt hàng. Tôi nhớ ngày xưa, vào mùa chiếu đông ken, nhà nhà chẻ lác, người người chẻ lác, lác trắng, lác nhuộm màu xanh, đỏ, tím, vàng phơi đầy hai bên bờ sông Cái Nhúc. Đó là thời điểm nông nhàn sau vụ cấy lúa mùa, tức từ tháng tám đến tháng mười âm lịch, cả xóm đổ xô ra đồng phát lác. Từng bó lát được chở về dựng đầy sân, già trẻ xúm nhau kẻ tề bông, người phân cỡ.Sau khi chẻ lát xong, người thợ dệt bắt đầu quay sang xé dây bố. Vỏ cây bố được bóc ra và cạo bỏ phần da sần sùi, giữ lại phần tơ mỏng, đem phơi khô và dùng móng tay xé ra từng sợi nhỏ li ti, sau đó dùng hai bàn tay se lại thành từng cuộn chỉ, gọi là chắp trân. Sợi trân được vòng qua một ống tre khoảng ba tấc treo trên trần nhà, gọi là ống bã. Người thợ chấp nối từng sợi bố rồi se lại trong lòng hai bàn tay thành dây trân. Mỗi lần rút dây trân qua ống bã, một âm thanh từ ống tre phát ra như tiếng đàn gáo. Cái âm thanh ấy đã từng ru tôi vào giấc ngủ khi mẹ tôi ngồi chấp trân giữa ban đêm.

Tháng chạp, lúa vô bồ xong là đến mùa dệt chiếu. Ngoài những loại chiếu trung bình dệt bán cho thương lái gọi là chiếu hàng, thợ dệt quê tôi nổi tiếng làm chiếu cao cấp gọi là chiếu đặt, tức là dệt theo đơn đặt hàng của khách. Đó là những đôi chiếu màu, chiếu bông, lảy hình con bướm, con nai, hoặc lảy chữ Tân hôn, Trăm năm hạnh phúc, Chúc mừng năm mới . . . Những đôi chiếu ấy được tuyển lựa từng sợi lác rất công phu, dệt thật đều, thật mịn để đôi chiếu như một bức tranh lộng lẫy, mượt mà.

Dệt chiếu để bán xong, mỗi nhà còn dệt cho mình những đôi chiếu đẹp để dành trải ra tiếp khách hoặc làm quà tặng cho bà con ở phương xa. Ngày giỗ, ngày tết, khách ngồi quây quần trên chiếc chiếu bông quanh mâm rượu mâm trà. Chiếu cũ thì dùng để trải dưới ghe, dưới xuồng mỗi khi có việc đi xa.

Mẹ tôi năm nay đã ngoài tám mươi tuổi, đã bỏ nghề chiếu gần hai mươi năm, đã rời làng quê ra chợ, đã ngủ bằng nệm mousse. Nhưng ngày đám cưới của thằng em tôi ở Sài gòn, bà vẫn lặn lội về Tân Thành đặt làm một đôi chiếu bông để làm quà mang lên tặng nó. Dường như đó là một thói quen của người thợ dệt.

Tôi gặp chị Năm Nga, một cổ động viên của làng chiếu Tân Lộc, ngồi uống cà phê trong Hội chợ, chị kể với tôi rằng ở quê chị hồi xưa có cô Sáu Liên đẹp nổi tiếng mà cũng là thợ dệt nổi tiếng. Thông thường thì chiếu lảy chữ mỗi cặp thợ dệt mỗi ngày chỉ một chiếc, nhưng hai chị em cô Sáu Liên dệt mỗi ngày đến hai chiếc. Sáu Liên có người yêu sắp cưới tên anh Thành. Năm ấy cô dệt đôi chiếu Tân hôn, một chiếc lảy chữ Liên-Thành và một chiếc lảy chữ Hạnh phúc. Đám cưới chưa kịp tổ chức thì anh Thành đi tập kết, cô Liên đành phải xếp đôi chiếu Tân hôn lại để đợi chờ. Sau đồng khởi, cô Liên tham gia kháng chiến rồi hy sinh, ngày lễ truy điệu của cô, đôi chiếu Tân hôn được đem ra làm đôi chiếu liệm để đưa cô về với đất. Lúc mở đôi chiếu ấy ra, cả làng chiếu Tân Lộc và đồng đội của cô không ai cầm được nước mắt.

Chiếu đã gắn bó với con người như thế ! Tôi lấy làm lạ là trong cuộc thi dệt chiếu, Ban tổ chức không gọi các thí sinh bằng thợ dệt mà gọi họ là nghệ nhân. Cũng phải thôi, mỗi chiếc chiếu là một bức tranh với những đường nét và màu sắc rất điêu luyện. Tất nhiên, cuộc thi nào cũng có giải nhất, giải nhì, giải ba và giải khuyến khích. Nhưng với cặp mắt thường, khó mà phân biệt được khoảng cách của các giải thưởng ấy ra sao.

Đêm trao giải mới xúc động làm sao, có lẽ đây là lần đầu tiên sau những trăm năm với bao nhiêu thế hệ làm nghề, người thợ dệt chiếu mới được bước lên sân khấu, nghề chiếu Cà Mau mới được tôn vinh. Tôi nhìn họ, từ bé Huyền Trân 11 tuổi đến bà cụ Lê Thị Sáu 68 tuổi, và cả chị Thi bụng đang mang bầu, tất cả trong áo vải quần thô, trong đôi dép nhựa đứt quai, những bàn tay chai sạn, những mái tóc vàng hoe và những gương mặt nám đen vì nắng gió, vì nước mặn đồng chua. . . Vậy mà, chính họ đã làm nên CHIẾU CÀ MAU nổi tiếng.

Chị Năm Niêm khẳng định với tôi một cách tự tin và tự hào rằng với tay nghề của những nghệ nhân hôm nay, chiếu Cà Mau vẫn sẽ tồn tại và phát triển cùng với nền văn minh hiện đại. Dù cho công nghiệp hiện đại phát triển đến đâu đi nữa thì hàng thủ công mỹ nghệ vẫn có vị trí riêng của nó. Chị nói, người Pháp đã đưa các cô gái Chăm vào dệt lụa trong khách sạn Victoria ở Cần Thơ thì không lý do gì chúng ta không quy hoạch các làng chiếu Cà Mau gắn liền với các khu du lịch sinh thái ở rừng đước rừng tràm, để từ những địa chỉ nầy, chiếu Cà Mau sẽ trở thành quà lưu niệm cho khách du lịch thập phương.

-->đọc tiếp...

Thứ Hai, 1 tháng 12, 2008

QUẢNG CÁO CHƠI




SÀI GÒN TIẾP THỊ NGUYỆT SAN SỐ 06, PHÁT HÀNH SÁNG NAY,31-11, MỘT SỐ BÁO DÀNH CHO CHỊ EM CÓ GIA ĐÌNH VÀ CHƯA CÓ GIA ĐÌNH VỚI NHIỀU ĐỀ TÀI HẤP DẪN NHƯNG NGU SAO KỂ RA,HÃY ĐỌC THÌ SẼ BIẾT.TẤT NHIÊN LÀ CÓ BÀI CỦA TUI NÊN TUI MỚI QUẢNG CÁO, MỘT BÀI VIẾT NÓI XẤU PHỤ NỮ VÀ ĐÀN ÔNG. MỘT CÂU CHUYỆN CÓ THẬT TRĂM PHẦN TRĂM, ANH CHỦ TỊCH XÃ DẪN CÔ TRƯỞNG TRẠM Y TẾ BỎ TRỐN.

Gió đưa bụi chuối sau hè
Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ

-->đọc tiếp...

HỒ SƠ MỘT ĐÁM CƯỚI





Thằng Lý nhờ tôi đại diện cho họ nhà trai để về Chợ Mới tổ chức đám cưới cho nó. Nó nói, toàn bộ chi phí, lễ vật cha mẹ vợ nó lo hết rồi, chỉ cần tôi có mặt với tư cách đại diện nhà trai. Tưởng gì chớ cái chuyện như vậy ai làm chẳng được. Nó nói vậy mà cha ruột nó lại không làm được. Ban đầu ổng hứa sẽ lên, nhưng gần tới ngày đám, nó gọi điện thì ổng cúp máy.

Ba thằng Lý là anh Tư Luận, con của bác Ba tôi. Tuy là anh em con chú con bác, nhưng có một thời chúng tôi coi nhau như anh em ruột. Thời chiến tranh ly loạn, chúng tôi chia nhau từng nỗi buồn, niềm vui, nhà ai có chuyện thì vượt sông, băng đồng đến thăm nhau, có xuồng thì chèo xuồng, không có xuồng thì lội bộ hàng chục cây số băng qua cánh đồng chó ngáp.

Sau chiến tranh, mỗi người đi một nẻo. Tôi xuống Cà Mau, anh Luận lên Sóc Trăng. Khỏang cách không gian, thời gian cùng với cuộc mưu sinh khó học cũng đã làm nên khỏang cách giữa con người. Mười năm sau tôi tìm thăm bác Ba tôi ở Sông Phụng, Kế Sách thì anh Luận đang làm chủ tịch xã. Thế rồi hai năm sau, đùng một cái, tôi nhận được tin anh bỏ trốn, dẫn theo chị Hằng, y sĩ mới ra trường về làm trưởng trạm y tế xã. Anh Luận có ba đứa con, thằng Lý năm tuổi, thằng Trí ba tuổi, bé Nguyên ba tháng. Được tin chồng theo vợ bé, chị Loan, vợ anh ẵm bé Nguyên đến bỏ trên bàn ủy ban xã như mắc đền một món nợ rồi chị ra đi, lên Sài Gòn lấy chồng khác. Anh Trung, em kế anh Luận đến ẵm bé Nguyên về nuôi ở Vũng Thơm, thằng Lý, thằng Trí ở lại Sông Phụng với bác Ba tôi.

Mấy năm sau tôi được tin, anh Luận dẫn chị Hằng về Long Khánh mua xe tải làm ăn nhưng thất bại, bán xe về Chủ Chí, gần đồng cho ngáp mua đất nuôi tôm, chị Hằng mở phòng mạch. Tôi ghé thăm, anh Luận bơi xuồng đưa tôi đi xem vuông tôm, anh nói thao thao bất tuyệt về một chiến lược phát triển kinh tế gia đình bằng nghề nuôi tôm sú. Tôi định hỏi thăm ba đứa nhỏ, nhưng sợ anh ngại nên thôi. Sau đó tôi lên Sóc Trăng thăm bác Ba. Ông sống chật vật với đồng lương hưu nhưng phải gồng thêm hai đứa cháu nội, ngày ngày đưa đón nó đi học, có hôm trời mưa, đường trơn, đường đứt, lầy lội, ông phải vừa dắt thằng Lý, vừa cõng thằng Trí trên lưng. Vợ chồng anh Trung ở Vũng Thơm, không đất, không nghề, không vốn, sống trong căn chòi rách nát dưới bờ tre, chồng đi bán cà rem, vợ đi giũ rơm mót từng hạt lúa để nuôi ba đứa con, phải gánh thêm bé Nguyên con anh Luận.

Một hôm, bác Ba tôi tìm đến nhà tôi, ông vừa khóc vừa kể, vợ chồng anh Luận bắt thằng Lý, thằng Trí về giữ vuông tôm, nói là đem về nuôi nhưng thực chất cư xử còn tệ hơn kẻ ăn người ở. Được mấy năm, tôm chết, không muốn cho nó ở nữa nên vu khống nó ăn cắp tiền. Giờ hai anh em nó lang thang không biết trôi dạt về đâu. Mấy năm sau tôi lên Sóc Trăng, thấy anh Trung càng nghèo hơn trước, nhà cửa rách nát, che bằng đủ thứ vật liệu tự kiếm dược, kể cả bọc nilon, nhưng bé Nguyên vẫn tiếp tục học đến lớp 12. Bác Ba tôi thì già yếu, mắt mù lòa, thằng Trí thì đã tìm về, đang làm thợ cho một tiệm sắt ở Sông Phụng, nghe nói thằng Lý đi làm cho một hãng giầy ở Sài Gòn. Một hôm, bất ngờ anh Luận đến nhà tôi, anh vẫn thao thao về chiến lược phát triển kinh tế gia đình bằng nghề nuôi tôm sú. Tôi kể sơ qua về hoàn cảnh anh Trung, anh Luận gạt ngang nói, cái thằng ấy lêu têu không biết làm ăn. Tôi nói dù sao anh Trung cũng nuôi bé Nguyên đến 18 năm, cho nó ăn học nên người. Anh Trung bây giờ đang cần một chiếc xe gắn máy để chạy xe ôm, xe Trung Quốc bây giờ chỉ có 8 triệu, anh Trung chỉ cần 4 triệu mua trả góp. Anh Luận nói: “Tưởng nhiều chớ 4 triệu thì anh chi ngay, chi một cách công khai mà không cần giấu chị Hằng”. Nghe anh nói quyết liệt, tôi cũng tin, nhưng cuối cùng thì chẳng có gì.

Bé Nguyên bây giờ đã lấy chồng, cả hai đều có việc làm ổn định tại Vũng Thơm. Thằng Trí cưới vợ được hơn một năm, vợ nó mở tiệm uốn tóc, nó vẫn làm công cho tiệm sắt ở Sông Phụng. Thằng Lý cũng vừa cưới vợ mấy hôm nay. Anh Luận thì bị chị Hằng đuổi ra khỏi nhà, đang sống lang thang với bà con bên nội tôi ở Chủ Chí. Cách nay mấy hôm, chị Út, con bác Hai tôi gọi điện nói mầy có cách nào cứu anh Luận mầy không, nó nằm ở nhà tao khóc suốt ngày, cứ đòi tự tử. Tôi nghĩ, có thể đó là một trong những lý do mà anh từ chối đi dự đám cưới của con anh. Sở dĩ tôi nói một trong những lý do là vì đám cưới bé Nguyên anh cũng không về dự, dù lúc ấy anh chưa bị vợ đuổi đi. Và cả đám cưới của thằng Trí, anh cũng chỉ đến để chứng kiến chớ chẳng có trách nhiệm gì. Ngay cả đám tang của bác Ba tôi, anh cũng chỉ góp vài trăm ngàn như một số tiền đi điếu.

Đám cưới thằng Lý diễn ra thật đẹp, đúng lễ nghi của một gia đình có truyền thống Phật giáo Hòa Hảo ở Cù Lao Giêng. Chúng tôi áy náy vì phải nói dối với họ hàng nhà gái rằng cha của Lý bị tai biến, nằm liệt giường nên không đi được. Cha vợ của Lý, anh Út Nhánh là một nông dân thật thà, chất phác nhưng lại sáng suốt trong mưu sinh và cả chuyện đối nhân xử thế. Từ Cù Lao Giêng, anh thu mua xoài non của chủ vười tỉa thưa rồi làm dưa chở lên Sài Gòn bỏ mối cho các nhà hàng. Anh nói, những năm đầu do không quen biết, giao dịch kém nên mỗi ngày tiêu thụ năm ba chục ký. Từ khi có thằng Lý vào tiếp một tay, số lượng tiêu thụ cứ tăng dần, nhưng không ngờ tình cảm của nó với con bé Thảo Nhi cũng tăng dần. “Ban đầu cũng lo lắm chớ, gã con cho một đứa không cha không mẹ, không rõ nguồn gốc, ai mà không lo. Nhưng rồi tôi thấy nó thật thà, kể hết đầu đuôi câu chuyện gia đình, không giấu giấm dù là những chuyện rất đau lòng, tôi cảm thấy thương, thương như con ruột. Nó lại là đứa biết cần cù, chịu khó, chí thú làm ăn, minh bạch từng đồng từng cắc . . . kể ra con mình cũng có phước”.

Nghe anh nói, tôi nghĩ mà giật mình, mà cảm động. Một thằng vô phước từ khi lên năm tuổi, hơn hai mươi năm lưu lạc, từng chịu đựng bao đắng cay tủi nhục, vất vơ vất vưỡng nơi xó chợ đầu đường, giờ biết đem lại hạnh phúc cho người khác. Nếu anh Luận hiểu được điều nầy, anh sẽ nghĩ sao ? Tôi kể lại câu chuyện nầy, vì không thể nào không kể sau khi nghe cha vợ thằng Lý tự hào về nó, nếu có điều gì làm tổn thương anh, mong anh hãy hiểu cho.

-->đọc tiếp...