Thứ Sáu, 24 tháng 4, 2009

NGƯỜI ĐÀN ÔNG VƯỢT DỐC



(Đón xem tập phim GÀ TRỐNG NUÔI CON phát sóng vào 21 giờ, thứ hai, 27-4 trên VTV9)
Võ Đắc Danh
Tôi quen với Ba Đen từ hôm đi viết câu chuyện Những Người Lương Thiện, tức những người sống lương thiện bằng cái nghề chạy xe ba-gác đang nơm nớp lo trước cái lệnh cấm hành nghề. Trong những người tôi gặp, Ba Đen để lại trong tôi một ấn tượng mạnh hơn bởi anh không nhà không cửa, vợ chết, phải nuôi ba đứa con ăn học. Tuổi 55 nhưng đứa con út của anh chỉ mới học lớp ba, hai đứa lớn thì mới lên lớp sáu. Nhiều lúc tôi tự hỏi, liệu cái tuổi đười cỡ đó, anh còn đủ sức để bươn chải cho ba đứa nhỏ học hành đến nơi đến chốn hay không ? Và nếu phải cấm xe ba-gác thì anh sẽ nuôi con bằng cách nào ?
Một hôm, lang thang trong Bình Hưng Hòa, tình cờ gặp lại anh đang đậu tài dưới một góc cây gần khu công nghiệp Tân Bình. Chợt nghĩ gần đến ngày nhập học, tôi hỏi anh đã chuẩn bị gì cho mấy đứa nhỏ chưa ? Anh lắc đầu cười, nói mấy ngày nay chạy xe ế quá. Tôi bảo anh về chở ba đứa nhỏ đi nhà sách chơi, tôi sẽ tặng cho mỗi cháu một bộ sách giáo khoa và vài chục quyển tập. Anh vừa mừng, vừa tỏ ra áy ngại, nhưng không cải được lời đề nghị của tôi nên đành chạy xe về.
Bé Hồng Ngọc, 12 tuổi; Tuấn Hải, 11 tuổi; Hồng Trang, 8 tuổi. Cả ba đứa đều sinh ra, lớn lên giữa đất Sài Gòn mà ra đường ngơ ngác như những đứa trẻ nhà quê, mà thật ra, chúng đi dạo phố bằng xe ba-gác cũng là một hiện tượng lạ mà tôi chưa từng thấy ở Sài Gòn. Ba Đen nói, ít khi nào anh đưa chúng ra đường, trừ khi về thăm ngoại hoặc đi chùa viếng mẹ. Mua sách xong, anh nói sẵn đây anh đưa chúng đi chùa thăm mẹ luôn, lâu lắm rồi chúng nó không được đi. Tôi theo anh đến chùa Long Hưng trên đường Lạc Long Quân, Ba Đen thắp nhang khấn vái: “Xin báo cáo với bà, hôm nay tôi vừa mua tập vỡ, sách giáo khoa chuẩn bị cho con nhập học, thuận đường tôi đưa chúng đến thăm bà, mong bà phù hộ cho cha con tôi mạnh khỏe, phù hộ cho con mình học giỏi, tôi hứa sẽ nuôi cho chúng ăn học đàng hoàng để bà được yên lòng nơi chín suối”. Hai đứa lớn tỏ ra ngậm ngùi khi nhìn bức hình mẹ nó dán trên hũ hài cốt, còn đứa nhỏ thì ngơ ngơ, ngác ngác như chẳng biết gì, bởi mẹ nó qua đời khi nó mới tròn 17 tháng.
Gần đến rằm tháng Tám, hai bên đường rực rỡ lồng đèn và bánh Trung thu. Ba đứa trẻ nhìn mãi mê như không chớp mắt. Tôi chợt nhớ trên vách nhà trọ của Ba Đen, bên cạnh tấm hình người vợ quá cố của anh là hai chiếc lồng đèn làm bằng khung trúc dán giấy kính màu, đơn sơ, thô kệch, bụi bám, nhện giăng, một di vật của tình mẫu tử.
Ba Đen nói anh rời quê Vĩnh Châu – Sóc Trăng – lên Sài Gòn từ năm 30 tuổi. Lý do ? Kiếm việc làm mướn với ước mơ thoát cảnh đói nghèo giữa cái giồng cát nghèo quanh năm nắng gió. Ban đầu anh đi làm bốc xếp, hai năm sau, ông dượng rễ đứng ra bảo lãnh cho anh thuê chiếc xích-lô. Ngày chở khách, đêm ngủ trên xích-lô dưới gốc cây ven đường. Nhờ có sức khỏe, siêng năng, biết dành dụm, chẳng bao lâu Ba Đen mua được chiếc xích-lô và cưới vợ. Vợ anh - chị Xuân Hồng – bán bánh mì trên đường Lý Thường Kiệt, gần chỗ anh đâu xe ngủ qua đêm. Ba Đen kể, mến cô gái ấy nhưng chẳng biết nói gì để tỏ tình, mỗi tối đến mua ổ bánh mì, liếc liếc, cười cười rồi đi. Một hôm, cô ấy nhờ anh đến lò lấy bánh, anh mừng quýnh lên như trẻ được cho quà, một hôm khác cô lại nhờ anh đi lấy chả lụa. Thế là mến nhau, yêu nhau rồi thành vợ thành chồng. Nhưng hạnh phúc đã không mỉm cười với anh. Đứa con gái út ra đời hơn một năm thì chị phát bệnh ung thư và chết trong đớn đau, nghèo khó.
Tôi cố hình dung cái gia cảnh của một người đàn ông tha phương cầu thực giữa Sài Gòn, mang nỗi buồn mất vợ, nuôi ba đứa con nheo nhóc trong căn phòng trọ tồi tàn bằng cái nghề chạy xe ba-gác, một đứa năm tuổi, một đứa bốn tuổi và một đứa mới mười bảy tháng. Tôi hỏi Ba Đen làm sao anh vượt qua được, anh cười: “Mình cũng không biết nữa, nhưng cuối cùng rồi cũng qua. Lúc ấy hai đứa lớn đi mẫu giáo, đứa nhỏ không chịu ở với ai, buộc lòng tôi phải chở theo xe ba-gác. Lúc đậu tài thì thả nó ngồi trong xe, đem đồ chơi theo cho nó. Lúc chở hàng thì để nó ngồi trên bắp đùi, mặt nó quay ra phía sau, hai tay nó câu eo ếch tôi như con khỉ đeo lưng mẹ. Tôi chở theo như vậy hơn một năm, cho đến ngày nó đi mẫu giáo”.
Phòng trọ chừng mười mét vuông, tiền thuê mỗi tháng ba trăm ngàn, nhưng Ba Đen nói, tháng nào có tiền thì trả, không tiền thì thôi, sự giúp đỡ của gia đình bà chủ nhà còn lớn lao hơn nhiều so với tiền trọ. Dì Tư Dữ luôn xem anh như con và xem con anh như cháu nội. Thỉnh thoảng bà sai anh làm vài chuyện lặt vặt rồi cho anh năm bảy chục ngàn. Hôm nào anh bận chở hàng đến trưa không về được thì gọi điện về cho chị Út, con Dì Tư để chị nấu cơm cho ba đứa nhỏ. Chị Út có hai đứa con gái, bé Huy đang là sinh viên và bé Ty đang học lớp mười. Cả hai đứa thay phiên nhau dạy kèm, kiểm tra bài vỡ cho con anh. Ba Đen nói: “Hai đứa nó nghiêm khắc như cô giáo, tụi nhỏ sợ lắm. Thấy nó dạy cực khổ, tôi cho tiền nó không lấy. Tôi nói thay vì nó đi học thêm thì chú cũng phải trả tiền, nó nói tụi cháu dạy giùm để chú không phải tốn tiền cho tụi nó đi học thêm”
Cách nay mấy hôm, cả ba đứa đều bị sốt xuất huyết, hai đứa nhỏ qua khỏi, nhưng bé Ngọc lên cơn mê sảng trong khi Ba Đen không có nhà. Chị Út tức tốc đưa cháu đi cấp cứu. Bác sĩ nói may là còn cứu kịp, nếu chậm vài giờ nữa thì cháu sẽ tử vong. “Tốn hết hai triệu rưỡi – Ba Đen kể - tôi phải bán chiếc xe sáu triệu đồng, may mà còn được ba triệu rưỡi, mua lại chiếc xe khác.
“Có đứt ruột mới thương người ruột đứt – Dì Tư tâm sự - con người ta sinh ra có ai lựa chọn sự nghèo khổ, chẳng qua là số phận. Tôi cũng đã từng chịu khổ nên thấy cái cảnh gà trống nuôi con của nó mà thương, giúp được cái gì hay cái nấy, tôi cũng nói với con cháu tôi như vậy, sống phải biết thương người”. Chị Út nói: “Mình đủ vợ đủ chồng, nuôi hai đứa con ăn học mà còn thấy đuối, huống chi Ba Đen. Mà chạy xe đâu phải ngày nào cũng có tiền. Nhiều khi đi ngang qua khu công nghiệp Tân Bình, trời nắng chang chang, thấy ảnh ngồi cú rũ dưới gốc cây với chiếc xe ế khách, rồi nghĩ đến ba đứa nhỏ nheo nhóc ở nhà mà muốn rơi nước mắt. Tôi hay đem chuyện cực khổ của ảnh ra kể cho mấy đứa nó nghe để nhắc nhở, dạy dỗ. Dường như tụi nó cũng biết nghe nên đứa nào cũng ngoan, chăm học”.
Tôi hỏi Ba Đen, anh có kiên quyết cho các cháu học hành đến nơi đến chốn hay không, anh nói như không dám tự tin cho lắm: “ Có nhiều lúc tôi định cho con Ngọc học hết lớp chín rồi đi học nghề để tiếp tôi lo cho hai đứa nhỏ, nhưng nhìn thấy chị Út, cũng nhà nghèo, chồng làm công nhân, vợ bán nước sâm nhưng cho bé Huy và bé Ty học tới cùng. Bé Huy, bé Ty vừa dạy kèm con tôi, vừa động viên tôi: Chú không được để cho tụi nó bỏ học giữa chừng, sau nầy khổ lắm ! Tôi sẽ cố gắng anh ạ. Nhưng ngựa chạy đường dài. Nếu tôi còn đủ sức để chạy xe và nếu cái nghề chạy xe ba-gác không bị cấm . . .”
Thôi thì cầu nguyện, tôi chỉ biết cầu nguyện cho anh. Không phải cầu nguyện ở ông bụt, bà tiên hay đấng tối cao nào mà chỉ xin cầu nguyện ở lòng nhân ái của cộng đồng.


====

Comments(3 total) Post a Comment

Gol F…
Offline IM
Đọc chuyện nào của anh cũng rơi nước mắt!
Friday April 24, 2009 - 09:43am (ICT)

Chiêu…
Offline
hông biết tới họ thì thôi ..biết thì phải làm cái gì đó chứ anh ...nhìn thấy vậy sao chịu nổi ..
Friday April 24, 2009 - 12:10pm (ICT)

Tường…
Offline IM
Tổng Giám Đốc SIC Nguyễn Thành Long đã đồng ý tặng anh Ba Đen chiếc xe ba gác máy "trong luồng" trị giá 51 triệu! Đã chuyển tiền rối đó, anh làm tiếp đi nghen. Hy vọng đời anh Ba Đen sẽ hết đen
Wednesday May 13, 2009 - 04:50pm (ICT)
-->đọc tiếp...

Thứ Tư, 15 tháng 4, 2009

NGƯỜI SÀI GÒN BẤT ĐẮC DĨ




Năm 2003 tôi đang làm đại diện cho báo Người Lao Động ở miền Tây thì bất ngờ phát hiện mình bị viêm gan siêu vi C khi xét nghiệm. Tôi gọi điện báo tin cho chị Hằng Nga, Tổng biên tập đang họp Quốc hội ở Hà Nội. Chị Nga hốt hoảng: “Em lên ngay Sài Gòn để điều trị, cứ bỏ hết mọi việc ở văn phòng, chị về sẽ tính sau”.

Đó là lý do để tôi trở thành người Sài Gòn bất đắc dĩ, không hề tính trước, cũng không hề mong muốn.

Năm 1997, một lần có việc phải lên Sài Gòn, tình cờ một anh bạn rủ đi nhậu. Anh chở tôi trên xe gắn máy từ Sương Nguyệt Ánh đi theo đường Cách Mạng Tháng Tám, gần Tết, người chen chúc nhau, giành nhau từng tấc đường. Lúc ấy tôi nghĩ bụng, tại sao phải sống ở đất Sài Gòn ? Sống mà ra đường phải giành nhau từng tấc. Tôi cũng đã thề trong bụng rằng, không có lý do gì phải chen chân lên cái đất nầy !

Đêm đầu tiên chở hai đứa con gái lên lầu 33 uống cà phê cho chúng nhìn toàn cảnh Sài Gòn. Đứa nhỏ - lúc ấy học lớp ba - hứng thú giơ hai tay lên, hét: “Trời ơi ! Con không ngờ bỗng dưng mình được làm người-Sài-Gòn.” Còn đứa lớn - học lớp mười một – thì rơm rớm nước mắt: “Về quê đi cha ơi ! Sài Gòn mênh mông quá, mình không chen vô nổi đâu !”

Nhưng rồi mọi chuyện cũng trôi qua một cách bình thường, chẳng có gì phải gọi là bon chen, chẳng có gì phải gọi là hội nhập. Chỉ có nỗi khốn đốn mà tôi cho là khốn đốn đến tận cùng, đó là nạn kẹt xe. Khi dừng lại dưới nắng trưa gay gắt, giữa nghìn trùng xe cộ, nghìn trùng ống khói xe thổi thốc vào người, vào mắt, vào mũi, cay xé, nặc nồng đến ngộp thở, đến trào nước mắt. Đó là lúc tôi quay về ký ức, thèm khát một khoảng trời cao đất rộng, sông nước mênh mông, cây cỏ bạt ngàn, gió lồng lộng một mùi tinh khiết, mùi của đất đai, rơm rạ, của khói đốt đồng. Rồi giựt mình ngoảnh lại cuộc hành trình của hơn nửa đời người, từ làng quê ra thị trấn, từ thị trấn ra đô thị nhỏ, từ đô thị nhỏ đến đô thị lớn. Ngồi viết bản khai nhân khẩu để chính thức nhập cư vào đất Sài Gòn, tôi chợt ngậm ngùi khi trả lời những câu hỏi về những chỗ ở đã qua: Từ năm . . . đến năm . . . ở đâu ? Làm nghề gì ? Xin thưa, làm sao mà kể hết những cánh đồng, những làng quê mà tôi đã đi qua trong khói lửa chiến tranh. Làm sao mà kể hết những cái nghề mưu sinh từ thuở ấu thơ đến thời niên thiếu: Bắt ốc, hái rau, giăng lưới, cắm câu, mò tôm, mò cá, cuốc đất, cày ruộng, giữ trâu, cấy lúa, gặt lúa, tát nước, làm cỏ, be bờ . . . Làm sao nhớ hết địa chỉ nhà trọ của một thời mà hai kiếp nông dân với thư sinh đè nặng một kiếp người.

Có một đêm tôi giật mình thức giấc thấy mình nằm trong mấy tấm lá chầm, ngoài trời mưa to gió lớn, mưa xuyên qua mái nhà rớt lên những tấm lá chầm nghe lộp bộp. Mẹ tôi vẫn ngồi chấp trân bên ngọn đèn dầu lập lòa trong gió, tiếng ống bả kêu o o như một khúc nhạc buồn.

Hồi ấy, có lẽ người ta chưa có sáng kiến để chế ra chiếc xa quay như bây giờ mà phải dùng hai bàn tay xe từng sợi bố, gọi là chấp trân. Sợi bố được vòng qua một ống tre treo lên mái nhà, ống tre ấy gọi là ông bả, sợi bố đi vòng qua ông tre tạo nên một âm thanh buồn như tiếng nhạc. Năm tháng đi qua, ống tre mòn khuyết tạo thành những vòng tròn, đường khuyết càng sâu thì khi sợi bố đi qua cái âm thanh ấy càng to và càng ngân nga, buồn da diết. Để có đủ trân cho một đôi chiếu, mẹ tôi phải xe hàng trăm mét dây bố, và mỗi năm mẹ tôi dệt hàng trăm đôi chiếu, có nghĩa là hai bàn tay mẹ tôi phải xe hàng chục vạn lần để có hàng vạn mét dây. Và một đời dệt chiếu, xe từng sợi bố, chẻ từng cọng lác, đời mẹ tôi còn lại chiếc lưng còng, những lưỡi dao cau mòn khuyết, những chiếc ống bả mòn khuyết và những khung dệt cũng mòn khuyết. Nhưng cái âm thanh buồn toát ra từ chiếc ống bả cứ bôn ba theo cuộc đời tôi như một bản trường ca.

Năm tôi lên bảy tuổi, đó là một buổi sáng tháng 5 năm 1967, sau một cuộc giao chiến ở một vùng ven trên đồng Phong Thạnh, khi tiếng súng vừa dứt, cũng như thường lệ, mẹ tôi đi thăm từng nhà trong xóm xem ai còn ai mất. Nhưng rồi bất ngờ, chúng tôi nhìn thấy mẹ tôi ngồi gục trên bờ đám mạ giữa đồng. Trên đường chúng tôi chạy ra, có những xác người vừa tử chiến nằm giữa lối đi. Một người đàn ông đi qua, giúp mẹ tôi khiêng ba tôi đặt lên bờ mẫu. Ba tôi bị một viên đạn súng trường xuyên qua cổ và hai mươi viên carbin lia trên ngực áo.

Sau khi gom xác những người tử trận – tất cả mười một người – xuống một chiếc ghe để đưa đi làm lễ truy điệu, mẹ tôi trở về mang hết mấy chục đôi chiếu xuống xuồng, những đôi chiếu vừa dệt xong còn thơm mùi lác mới. Không ai bảo, nhưng tôi biết mẹ tôi muốn dành những đôi chiếu ấy cho cả những người đồng đội của ba tôi. Hôm ấy trời mưa, mưa tối trời tối đất. Tôi ngồi trùm cao su trước mũi xuồng, mẹ tôi còng lưng chèo trong mưa gió, từng mái chèo nặng nhọc chống chọi với những cơn dông, những con sóng cuộn tròn trên dòng sông Phụng Hiệp mà điểm đến là cái nhà tang lễ để làm một cuộc chia ly đầy tang tóc sau cùng.

Cũng tháng Năm năm ấy, mẹ tôi chính thức ra đồng để thay thế cho ba tôi.

Nhà tôi có năm anh em , anh Hai tôi lúc ấy chỉ mới mười sáu tuổi, cái tuổi chưa gánh vác nổi việc nhà nhưng lại ngấp nghé trước món nợ núi sông. Hôm ấy – một năm sau khi ba tôi mất – một buổi sáng tôi đang lẽo đẽo theo mẹ ra đồng thì gặp bác Tư Nghiệp – một người bạn cùng làm việc với ba tôi trên xã – ông dừng lại, ngồi trên bờ ruộng nói với mẹ tôi những điều gì đó mà tôi linh cảm là hệ trọng. Khi tôi đến gần thì nghe mẹ tôi nói nhỏ, giọng trầm buồn: “Có người mẹ nào lại muốn con mình xông ra lằn tên mũi đạn đâu anh Tư, hơn nữa tôi cũng hy vọng nó lớn lên sẽ giúp tôi lo chuyện ruộng đồng. Nhưng chiến tranh mà, biết làm sao giữ được. Thôi thì tôi giao nó cho anh”.

Nói rồi, mẹ tôi quay đi trong nước mắt. Hôm ấy mẹ tôi bỏ công việc ngoài đồng để về xúc mấy giạ lúa chèo ra chợ bán, mua cho anh Hai tôi mấy khúc vải xanh.

Ba năm sau, vào một ngày giữa tháng giêng, tôi đang hì hục bắt cá đìa cho chú Bảy gần nhà thì một thằng bạn cùng xóm tìm đến, nó đứng trên bờ đìa ra hiệu cho tôi lên rồi nói nhỏ: “Về đi, anh Hai mầy chết rồi !”.Tôi băng qua cánh đồng rạ khô chạy về, cả nhà im lặng, những người hàng xóm đến thăm cũng im lặng trong nước mắt chảy dài. Lần nầy mẹ tôi không gào khóc như lần tiễn ba tôi, bà ngồi trơ như pho tượng, không nhìn ai, cũng không nói với ai, thỉnh thoảng đưa tay lên vuốt ngực, nước mắt nhỏ từng giọt nặng nề.

Anh Hai tôi vừa mất thì anh Ba tôi cũng đến tuổi trưởng thành. Anh là một người lao động giỏi, giỏi đến mức cả xóm đều khen. Đào đất, phát cỏ, nhổ mạ, cấy lúa, gặt lúa . . . anh làm suốt từ hừng đông đến mặt trời lặn mà không biết mệt. Nhưng anh làm thay mẹ tôi chưa được bao lâu thì xóm tôi trở thành vùng giao tranh ác liệt, đồn đóng gần nhà, nạn bắt lính đôn quân làm cho dân tình náo loạn.

Mẹ tôi lại xúc lúa chở ra chợ bán, mua về cho anh Ba tôi mấy khúc vải xanh.

Phía sau nhà tôi, cách vài cây số có một ngôi chùa lớn gọi là Tòa Thánh của Cao Đài Minh Chơn Đạo. Ngôi chùa bị bom Pháp đánh sập từ năm 1945, chỉ còn lại một bức tường cao, và trên bức tường cao ấy có một cây gừa cổ thụ. Những người trong xóm tôi theo Giải phóng quân đều đi về phía ấy, và mỗi lần về thăm nhà họ cũng về từ phía ấy. Tôi nhớ ba tôi cũng trông về phía ấy, mẹ tôi tiễn anh Hai tôi cũng dõi mắt về phía ấy cho đến khi anh Hai tôi khuất dạng trong lùm cây. Rồi ngày ngày, mẹ tôi cũng ra cửa sau trông về phía ấy. Từ ngày anh Hai tôi mất, mẹ tôi cố tránh cái nhìn về phía ấy. Nhưng từ ngày anh Ba tôi ra đi, mẹ tôi lại ngóng trông về phía ấy, một nửa chờ mong và một nửa đau buồn. Nhưng rồi hai năm sau, mẹ tôi không dám nhìn về phía cây gừa ấy nữa khi một người quen đến báo hung tin. Lần nầy, mẹ tôi lại ngồi như pho tượng, lại vuốt ngực với từng hơi thở nặng nề. Có nhiều đêm trở giấc, tôi giật mình thấy mẹ tôi vẫn còn ngồi đó, tay đấm nhẹ vào ngực và cố đè nén hai tiếng “Trời ơi!”

Năm tôi lên mười sáu tuổi, mẹ tôi không xúc lúa chở ra chợ bán để mua mấy khúc vải xanh như hai lần trước nữa mà bà bán hết lúa trong nhà để ra Cà Mau thuê người làm cho tôi cái giấy khai sanh giảm xuống cho tôi hai tuổi để tôi tiếp tục đến trường. “Có người mẹ nào lại muốn con mình xông ra lằn tên mũi đạn đâu anh Tư . . .”. Khi mẹ tôi gọi người hàng sáo đến đong những táo lúa cuối cùng trong bồ, tôi chợt nhớ đến câu nói ấy.

Thời đó, tôi chưa đủ trí khôn để hiểu rằng, để có được tờ khai sanh giả, để chiến tranh không phải cướp mất tôi, mẹ tôi phải ra đồng từ lúc hừng đông cho đến khi hàng xóm lên đèn, tấm thân gầy lần mò trên bờ mẫu giữa tiếng nhái bầu đồng thanh một khúc nhạc buồn trên đồng nước bao la khi trời chạng vạng. Đêm đêm, tôi ngủ bằng điệu ru của tiếng ống bả chấp trân trong căn nhà dột nát, mẹ phải che cho tôi bằng những tấm lá chầm.

Cái tờ khai sanh giả ấy đã giúp tôi vượt qua nạn bắt lính đôn quân cho đến ngày chiến tranh kết thúc. Ngày hôm ấy, sau giây phút mừng vui, bỗng mẹ tôi lặng người đi, rồi run rẩy đôi tay khi đốt ba nén nhang cắm lên ba chiếc lư hương giữa bàn thờ, bà lại cố nén hai tiếng “Trời ơi” thốt ra từ trong hơi thở.

Sau chiến tranh, tờ khai sanh ấy không còn nằm trong hồ sơ pháp lý của tôi nữa, nhưng trong hành trang của cuộc đời tôi, nó vẫn là một tờ khai sanh vô giá.

*

Cách nay hai năm, tôi đã rước được mẹ tôi lên Sài Gòn. Phải khó nhọc lắm chúng tôi mới làm được việc nầy, dời một bà cụ ngoài 80 tuổi rời bỏ quê hương để làm cư dân Sài Gòn, quả là một điều không tưởng. Người trẻ thì bảo đất nước mình đâu cũng là quê hương, nhưng người già thì hay nói rằng ai nỡ rời bỏ nơi chôn nhau cắt rún. Với mẹ tôi, quê hương không chỉ là nơi chôn nhau cắt rún, không chỉ là dây mướp dây bầu, không chỉ là con đường làng, đồng lúa, dòng sông mà còn cả máu xương của bao người thân ngã xuống. Tôi hiểu cái cảnh mẹ tôi ngồi cú rủ suốt ngày giữa bốn bức tường, bà không nói ra, cũng không trách chúng tôi, bởi bà biết không còn cách lựa chọn nào khác.

Hai mươi năm trước, tôi đã từ chối một cơ hội làm người Sài Gòn trong nỗi dằn vặt vì không muốn xa quê. Sau khi bút ký Nơi Ấy Bây Giờ đăng hai kỳ trên tạp chí Văn thành phố, kể lại câu chuyện về nạn cường hào ở một vùng quê, tôi suýt bị tống vô nhà giam. Nhà văn Anh Đức bảo tôi chuyển lên Sài Gòn, sẽ được cấp một căn hộ ở chung cư Đồng Khởi. Sau gần một tháng lang thang ở Sài Gòn, vừa tạm thời lánh nạn, vừa cân nhắc xem mình có thể sống được không. Một buổi sáng trời mưa lắc rắc, ngồi uống cà phê vỉa hè trên đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, nhìn dây bìm bìm phủ xanh trên hàng rào kẽm gai, tôi phát ứa nước mắt vì một nỗi nhớ nhà, rồi tự nói: “Sài Gòn không phải là đất của mình”. Vậy là nhảy lên xe đò về quê. Nhưng về tới quê hương thì lại phải đối diện với bao chuyện phiền hà. Ông bí thư Tỉnh ủy mời ông chủ tịch hội văn nghệ lên gây sức ép: “Nếu cậu giải quyết cho thằng Danh thôi việc thì tôi sẽ ký hồ sơ cho hội tiếp tục ra tờ báo, bằng không thì thôi”. Ra đi thì không nỡ, mà ở lại thì bị dập bị vùi, tôi cho đó là cái bi kịch yêu quê hương, bi kịch vì nặng nợ với nơi chôn nhau cắt rún. Năm sau, sinh con gái đầu lòng, tôi quyết định lấy cái nhau về ngâm mật ong, cho nó tan ra rồi pha rượu uống. Nghĩa là để cho con tôi không có nơi chôn nhau, để sau nầy nó không gặp phải cái bi kịch như tôi đã gặp. Và tôi yên tâm với những điều mình nghĩ.

Hóa ra đó chỉ là điều vớ vẩn.

Ngày rời quê hương, con gái tôi đã khóc ngay từ khi xe bắt đầu chuyển bánh. Và nó đã khóc suốt một năm, nó tâm nguyện rằng Sài Gòn chỉ là nơi ở tạm để rồi sẽ quay về sau khi học hành tử tế. Tôi đã hiểu ra rằng, khái niệm quê hương không phải là nơi chôn nhau cắt rún mà là những gì thân thuộc đã nuôi dưỡng tình cảm con người.

Phải chăng, chính vì lẽ ấy mà Sài Gòn với tôi, và cả với mẹ tôi vẫn chỉ là đất khách.

-->đọc tiếp...

Thứ Sáu, 10 tháng 4, 2009

CUỘC ĐỜI BI KỊCH CỦA CHỊ LÝ




Đón xem tập phim MẸ CON CHỊ LÝ trong chương trình VLSP phát sóng vào lúc 21 giờ, thứ hai,13-4 và phát lại lúc 9 giờ 50, thứ năm, 16-4 trên VTV9


Năm 1990, bé Thuyết chào đời, tôi sung sướng vì được làm mẹ thì anh tỏ ra thất vọng, anh nói thẳng: “Tôi không thích con gái !”. Anh giục tôi sinh đứa thứ hai. Năm 1993, bé Linh chào đời, anh lại thất vọng lần nữa. Hai năm sau, bé Trang chào đời. Sóng gió cuộc đời tôi bắt đầu từ đó . . .

Chị Lý cúi đầu im lặng, hai hàng nước mắt chảy dài trên gương mặt xanh xao của một bệnh nhân ung thư vừa thoát chết.

Người ta nói bi kịch xuất phát từ những sai lầm trong quan niệm sống. Trong trường hợp nầy, chị Lý là nạn nhân của ý thức trọng nam khinh nữ của chồng chị và cả gia đình chồng, chị bị xem như kẻ tội đồ khi sinh đứa con gái thứ ba. Hai năm sau, anh Dong, chồng chị dẫn về nhà một người phụ nữ ẵm đứa con trai, anh công khai giới thiệu “đây là cháu nội đích tôn của bố mẹ”.

Bi kịch đến thế cũng chưa phải là tận cùng với chị. Năm 1998, bé Thuyết ngã bệnh và lìa đời khi đang học lớp hai, cả nhà không ai hiểu nó chết vì bệnh gì. Có người nói nó không chịu nỗi cú sốc vì nhìn thấy mẹ bị cha hành hạ triền miên, mấy ông thầy lang ở làng Tiên Du – Phú Thọ - thì kẻ nói vầy người nói khác. Đau đớn tột cùng, lại bị cái đói, cái nghèo đe dọa quanh năm, chị Lý dắt bé Linh và bé Trang về gởi nhờ cha mẹ ruột rồi lên xe lửa vào Sài Gòn tìm lối thoát trong niềm hy vọng mong manh bằng công việc nấu cơm, quét dọn nhà cửa cho một người đồng hương với thu nhập ba trăm ngàn đồng mỗi tháng. Một năm sau, chị tìm được việc làm ở một hãng giày da. Lương tháng tám trăm ngàn chỉ là số tiền lẻ so với nhiều người nhưng với chị, đó là nguồn thu nhập chưa bao giờ dám hy vọng trong những năm tháng sống ở quê nhà, cuốc bẩm cày sâu trên bảy trăm mét vuông đất, hết mùa lúa đến mùa khoai mà vẫn không đủ nuôi sống gia đình. Tám trăm ngàn, người ta có thể xài trong chốc lát, nhưng với chị, nào tiền trọ, tiền cơm, chắt chiu gởi về quê cho hai đứa con ăn học. Vậy mà năm năm sau, chị tích lũy hơn hai lượng vàng. Nhưng rồi một tin sét đánh: bé Linh và bé Trang bệnh nặng, đang nằm cấp cứu ở bệnh viện nhi Hà Nội. Buồn, đau, nhưng chị nghĩ cũng may mắn là mình có tiền để chữa bệnh cho con. Cả hai đứa bé đều bị đau lá lách, phải phẩu thuật, truyền máu. Bao nhiêu năm dành dụm với niền hy vọng đổi đời, giờ tay trắng. Nhưng, thà tay trắng còn hơn . . . chị đã không cứu được bé Trang vì bệnh của nó quá ngặt nghèo. . .

Chôn cất con xong, chị ra Tòa ký đơn ly dị, tạm gởi bé Linh cho ngoại rồi trở vào Sài Gòn làm lại một cuộc mưu sinh. Người ta nói “họa vô đơn chí” phải chăng chính là cảnh ngộ của chị bây giờ ? Nỗi đau còn đang giằn xé tận tâm can, giữa xứ lạ quê người với hai bàn tay trắng thì chị phát hiện mình mắc bệnh ung thư. Nhập viện trong cảnh không tiền, bệnh viện lại quá tải, chị chọn một góc hành lang làm nơi tá túc. Bọc nilon, lon bia, ve chai là nguồn sống qua ngày. “Nếu không có bác sĩ Hạnh thương tình giúp đỡ thì không biết số phận tôi sẽ ra sao – chị nói – ngoài việc vận động các đồng nghiệp cho tiền, bác sĩ Hạnh giới thiệu tôi với các nhà sư, các đoàn công tác từ thiện đến đây cứu trợ bệnh nhân nghèo. Nhờ vậy mà tôi thoát chết”.

Trong lúc chị đang nằm viện thì bé Linh vào tìm chị: “Ở với ngoại thì bố không cho, bố đến nhà mắng chửi ông bà ngoại, đòi bắt con về. Nhà trường thấy con nghèo mà học giỏi nên vận động thầy cô giúp năm trăm ngàn, nhưng bố cũng lấy hết . . .”

Bé Linh lúc ấy vừa học xong học kỳ I năm lớp 6. Không thể để con bỏ học, nhưng chuyển trường giữa năm học là một việc không dễ làm. May thay, thầy Hồng, hiệu trưởng trường trung học cơ sở Phan Công Hớn nhìn học lực của bé Linh trong học bạ, hiểu hoàn cảnh chị Lý nên thầy đã sẵn lòng.

Xuất viện. Tiều tụy. Xanh xao. Lê từng bước chân nặng nhọc. Chị đắt bé Linh ra đường mà không biết đi đâu, về đâu giữa Sài Gòn mênh mông, không biết sống bằng gì khi không còn đồng xu dính túi. Lang thang khắp các nhà trọ ở Bà Điểm – Hóc Môn nhưng đều bị người ta từ chối vì không có tiền trả trước. Một bà lão qua đường chợt hỏi: “Con đi đâu mà thảm hại thế nầy”. Chị kể vắn tắt hoàn cảnh của mình. Bà lão chỉ tay về hướng bên kia đường: “Con thử đến đó hỏi nhà bà Sáu Trâm, bà ấy nhà nghèo nhưng tốt bụng, hay cưu mang những người thất cơ lỡ vận”. Từ đó, cái chái lá phía sau nhà bà Sáu Trâm trở thành nơi tá túc của hai mẹ con chị Lý. Ở, bà không lấy tiền trọ. Đói, bà nuôi cơm. Trong vườn có đủ thứ trái cây, bà bảo “mẹ con bây cứ hái mà ăn cho mau lợi sức”. Bé Linh theo giúp việc cho bà, bà nói “vô mà lo học bài”.

Chị Lý bây giờ đã có việc làm ở công ty bảo vệ Thăng Long. Bé Linh được tiếng là con ngoan, trò giỏi. Nghỉ hè, cháu đi làm thêm cho hiệu sách. Mười sáu tuổi, cái tuổi của mơ mộng, của hồn nhiên nhưng ánh mắt Linh đã hằn sâu những nét đau đời, những khát khao và nghị lực. “Con chỉ mong mẹ con sống lâu để được nhìn thấy con vào đại học”. Một ước mơ quá đỗi bình thường nhưng với Linh, đó là điều không đơn giản, và, có lẽ cháu đã đủ kiến thức để hiểu được cái điều không đơn giản ấy, cái nguy cơ tiềm ẩn của chứng bệnh ung thư mà mẹ cháu đang mang.

Bốn mươi tuổi đời, nhìn lại cái mất đi quá nhiều so với những gì mình có được, mà cái có được không biết mình sẽ gìn giữ được bao lâu, nỗi ám ảnh mình sẽ mất đi, bỏ lại đứa con gái nhỏ,yếu đuối, bơ vơ giữa cõi đời nầy nhiều khi biến thành cơn ác mộng trong chi Lý. Trong những khoảng lặng nhìn con, hoặc nghĩ tới con, cơn ác mộng ấy đã làm chị rưng nước mắt. Nhưng biết làm sao được. Số phận, chị đã từng vượt qua, từng được sự tiếp sức của bao người để vượt qua, để chiến thắng. Nhưng, liệu có vượt qua được cánh cửa của tử thần ?

HỒNG VINH

-->đọc tiếp...

Thứ Bảy, 4 tháng 4, 2009

NGÔI NHÀ CỦA NGƯỜI MẸ UNG THƯ




(Nhân vật trong phim TẤM LÒNG CỦA MẸ sẽ phát sóng vào 21 giờ, thứ hai, ngày 6-4)

Ngôi nhà của mẹ con chị Tùng nằm ven con đường làng nhỏ, ở ấp 3 xã Đa Phước, ngôi nhà thật giản dị, nhưng rất có ấn tượng nếu một ai đó tình cờ ghé mắt vào. Bởi người ta sẽ không hiểu tại sao, chỉ là hai mái nhà đơn sơ như vậy lại được lợp bằng hai loại vật liệu khác nhau. Mái trước lợp bằng tấm lợp tiprô xi măng, mái sau lợp bằng lá dừa nước. Thế nhưng hai thứ vật liệu tưởng chừng như không thể gắn kết được với nhau để tạo nên những mái nhà, lại làm nên cái tổ ấm, mà ở đó, đang chứa đựng một câu chuyện đời – Nghe, cứ ngở như trong truyền thuyết !

Chị Tùng, người đàn bà của “ truyền thuyết” này, vốn xuất thân từ gia đình nghèo khó, cha mẹ chị mang tiếng là nông dân, nhưng không có một mảnh ruộng, thửa vườn. Chị Tùng cũng như những người anh chị em mình, từ tuổi ấu thơ phải biết đi làm thuê, làm mướn để kiếm miếng ăn. Nghèo khó là cái lý do đơn giản và thuyết phục nhất để cả nhà chị Tùng thành những người ít chữ. Rồi chị tới tuổi lấy chồng, lẽ đương nhiên đó cũng là người chồng cùng cảnh ngộ. Và, điều không thể khác hơn là vợ chồng chị Tùng phải tiếp tục cái nghèo truyền kiếp.

Với hai vợ chồng, chị Tùng thấy rằng họ không có cơ may để hy vọng đổi đời. “Tay làm hàm nhai”, trong cảnh ấy những đứa con cứ lần lượt ra đời. Một thế hệ nữa lại nối tiếp kiếp nghèo từ cha mẹ chúng. Nghĩ về tương lai con cái, chị Tùng nghe buồn thấu tâm can.

Khi đứa thứ sáu ra đời, vợ chồng chị Tùng mới mua nổi một lỏm đất “ chó nằm ló đuôi” để cất tạm ngôi nhà. Nhưng đó là tài sản duy nhất, thứ vật chất quí giá nhất mà chị phải chắt chiu hằng bao năm trời cực nhọc mới sở hữu được. Song, chị cũng hiểu rằng, bấy nhiêu đó không là gì cả cho một đàn con sáu đứa đang đứng trước tương lai mờ mịt. Chỉ có một thứ duy nhất khả dĩ giúp cho bọn trẻ thoát khỏi bóng tối của số phận, đó là ánh sáng của chữ nghĩa. Thế là chị cố gắng, bằng mọi giá các con đều được đến trường. Nhưng cái nghèo cứ như có sức nặng của núi đá đè lên số phận. Sự học của ba đưá con đầu phải nửa chừng gảy đổ. Con gái đầu lòng chỉ học đến lớp 8 đành nghỉ học, con gái thứ hai, chị phải ráng hết sức, cũng cho học hết cấp ba, con trai thứ ba thì cùng chung số phận với chị lớn, không vượt qua lớp 8. Rồi cả ba lớn lên đều được chị dựng vợ gã chồng, nhưng đã không đủ chữ để bước vào đời, nên đời chúng chẳng khác gì hơn đời chị. Nhìn ba đứa con phải nối gót lênh đênh chốn cơ cầu, chị thấy mình có lỗi. Chị Tùng quyết dành sức lực và tâm huyết nữa đời còn lại để lo cho ba đứa con nhỏ học hành đến nơi đến chốn.

Trong khi con đường quyết tâm và nỗ lực còn dài, thì năm năm trước, chồng chị Tùng đột ngột qua đời, để lại cho chị căn nhà nhỏ xiêu vẹo và ba đứa con thơ dại.. Nhưng trước nỗi đau buồn vô tận ấy, ý chí của người mẹ đã không gục ngã mà lại được nhân lên gấp bội. Như để chung sức cùng với mẹ, ba đứa con của chị Tùng đều rất ngoan hiền, chăm học và học giỏi. Ngoài giờ học, cả ba đứa trẻ còn biết tự nguyện ,tự giác chia nhau công việc để giúp mẹ đỡ nặng gánh, lo toan. Minh Cường giờ là con trai lớn trong nhà ( sau khi ba người anh, chị Cường có gia đình riêng ) Cường đi tìm mối dạy kèm, ra bến xe miền Tây giúp chị bán trái cây. Em gái kế Cường là Kim Tuyến lo việc nội trợ rồi cùng em trai út Thanh Tuấn phụ mẹ xỏ lông gà, công việc mà nhiều năm rồi mẹ Tùng nhận về nhà làm gia công cho người ta bó chổi. Mỗi một xâu lông gà dài thược chỉ được ba ngàn đồng. Chị Tùng làm chen vào giờ rảnh sau công việc bán cá ở chợ. Nếu bốn mẹ con ngồi xỏ suốt ngày chỉ được 50 ngàn đồng, còn làm thêm vào giờ rảnh, tính ra mỗi tuần họ được hơn trăn ngàn, nhưng tất cả là để nuôi lớn niềm hy vọng vào tương lai ba đứa trẻ !

Thời gian của cuộc sống nhọc nhằn cứ dần trôi qua trong căn nhà xiêu vẹo, mục nát nhưng tràn đầy niềm hy vọng của bốn mẹ con. Minh Cường giờ đã là sinh viên năm thứ hai đại học công nghệ hóa, Kim Tuyến đang học lớp 10, út Thanh Tuấn là học sinh giỏi của trường phổ thông cơ sở Đa Phước. Ý thức nuôi chữ lập thân của ba đứa trẻ đều hết sức rõ ràng và rất tự tin. Căn nhà ngày càng mục nát, xiêu vẹo hơn, cái nghèo thì vẫn còn nguyên ra đó, nhưng với người mẹ, chị đã đi được hơn nữa đoạn đường của ước mơ, hoài bảo ở phần đời còn lại. Ở cái tuổi đời vừa chạm tuổi 50, chị Tùng vui lắm, nghĩ mình còn đủ thời gian để hưởng tròn hạnh phúc ở cái ngày mà thằng út Thanh Tuấn mang về dâng mẹ tấm bằng đại học, như để chứng minh cho sự hóa kiếp đói nghèo, cơ cực mà chị vốn tin rằng, chỉ có con chữ mới có thể làm nên điều kỳ diệu !

Ở xã Đa Phước, không mấy ai quan tâm đến chuyện học hành mà không biết chị Tùng, người phụ nữ dám xem thường nghèo đói để quyết nuôi con ăn học, và những đứa con của mẹ Tùng, biết lấy việc học để xóa đi cái mặc cảm của con nhà nghèo. Người ta xem gia đình chị như một tấm gương, cảm mến và chia sẻ. Hội khuyến học cũng như chánh quyền địa phương Đa Phước đều có sự quan tâm giúp đỡ, nhưng cũng trong giới hạn khả năng của một xã nghèo.

Năm 2008, chánh quyền xã Đa Phước trao cho chị Tùng 5 triệu đồng, gọi là tiền hổ trợ chống dột để chị sữa lại căn nhà đã quá nát của mình. Đó cũng là mong ước của chị Tùng từ bấy lâu nay, nhưng gần như không thể. Vậy mà niềm vui chưa kịp thì tai họa lại ập đến.

Ngay khi cầm 5 triệu trong tay, chị Tùng phát hiện ra mình có một khối u trên ngực. Tại bệnh viện Ung Bứu, bác sĩ cho chị biết đó là khối u ác tính, có đường kính lên đến 5,3cm, phải can thiệp ngay bằng phẫu thuật mới mong còn con đường sống. Tính hết chi phí cho ca phẫn thuật ( hơn 1 triệu ) cộng viện phí, thuốc men sau mổ, phải mất 10 triệu đồng, rồi còn phải tốn tiền cho một phác đồ điều trị lâu dài, làm cho chị Tùng hoang mang lo nghĩ.

Mổ hay là chết ? Đương nhiên,chị không muốn chết, chị chết rồi các con phải sống ra sao ? Con đường học vấn của chúng sẽ về đâu ? Trong khi đó, các con của chị đều hoang mang, sợ hãi. Chúng bàn nhau nghĩ học để đi làm kiếm tiền lo cho mẹ đủ trị bệnh. Thằng Cường nói : “ Mẹ phải mổ để sống, nếu mai ngày không còn mẹ, cho dù các con có làm được nhiều tiền, cũng đâu còn mẹ nữa, mà không còn mẹ, thì dù giàu cũng chẳng ý nghĩa gì !” Nhưng chị thì lại nghĩ : “Đời các con hãy còn dài, mẹ dù sao cũng đã đi qua hơn nữa đoạn đời, nếu phải chọn lựa sự hy sinh thì mẹ hy sinh cho con, vì con, chớ các con đừng vì mẹ, nếu mẹ sống để nhìn thấy tương lai các con mờ mịt, sự sống ấy cũng chẳng có ý nghĩa gì !” Chị nói với các con : “ Các con nhất định không được nghỉ học, bệnh mẹ, mẹ sẽ tự lo, rồi sẽ khỏi, còn các con bỏ học, là bỏ dở tương lai, sẽ khổ một đời !”

Dùng dằng, chọn một lối đi nào trên con đường sinh tử này đây ? Chị vẫn chưa quyết định đóng tiền phẫu thuật để bệnh viện lên lịch mổ . Tháng 10, mưa nắng cứ bất thường, áp thấp nhiệt đới và những cơn bão xa. Trong khi chị đang u ám nghĩ về số mạng mình. Thì bỗng một đêm chị bừng tỉnh lại giữa cảnh đất trời giông gió. Chị thản thốt nhớ về ngôi nhà ! Ngôi nhà siêu vẹo, mục nát của chị có thể đổ sập bất cứ lúc nào. Có thể là ngay trong đêm nay, nó sẽ đè chết cả ba đứa con của mình đang ngon giấc ! Thế là không còn gì phải suy nghĩ về mình, chị quyết định trốn khỏi bệnh viện trở về nhà, chị dùng hết số tiền 5 triệu đồng mua cây lá dựng lại ngôi nhà mới. Chị thấy nhẹ lòng, rằng mình đã cứu kịp các con, bởi cái ngôi nhà cũ, nó mục đến mức khi hạ xuống, không ai dám trèo lên để tháo dỡ mà phải dùng kế khác. Cả cái xác nhà, chỉ còn tận dụng lại một cây cột duy nhất, cái cây cột đáng thương ấy như biết cố sức chống đỡ để chờ chị kịp trở về !

Chị Tùng cảm thấy nhẹ lòng nhìn các con được an toàn trong ngôi nhà mới, nhưng con đường để đưa chị trở lại bệnh viện thì đã không còn. Chị Tùng ráng kéo dài mạng sống bằng những thang thuốc nam, mà mỗi thang thuốc chỉ tốn hơn 4 ngàn đồng, song đó cũng là một liệu pháp tinh thần cho các con. Cả ba đứa nhỏ đều thể hiện quyết tâm học tập. Kết quả học kỳ I năm 2008 – 2009, thằng Tuấn đạt điểm xuất sắc với số điểm 9.0, hai đứa còn lại đều có kết quả khá .

Không biết rồi những thang thuốc nam có trở thành phép mầu để giúp chị Tùng vượt qua căn bệnh nang y hay không, nhưng tình mẫu tử thiêng liêng chính là phép mầu huyền diệu, đã giúp cho mẹ con chị Tùng vượt lên trên bao bất hạnh, thảm cảnh để cùng bước đi trên con đường đời tưởng như không thể, nhưng họ cứ cố nén đau thương mà bước, mà dắt dìu nhau, hướng về cái đích đến tương lai. Trên con đường dài dằn dặc của sự nghiệt ngã ấy, càng gần đến đích, thì sức lực họ càng cạn kiệt …

Chúng tôi kể lại chuyện này với một niềm tin rằng – Câu chuyện về gia đình chị Tùng sẽ kết thúc có hậu như một truyền thuyết đẹp. Bởi câu chuyện này cũng chính là tấm gương soi chiếu vào lòng nhân ái, vào đạo lý làm người của tất cả chúng ta !



Mai Hân

Ảnh: Bán cá, xỏ lông gà là nguồn thu nhập chính của mẹ con chị Tùng

-->đọc tiếp...