VÕ ĐẮC DANH
Tôi biết Phượng cách đây hơn ba năm trong một lần ghé mua xôi trên đường Nguyễn Thành Ý, phía cổng sau trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng. Thấy con bé trạc tuổi con mình, gương mặt hiền lành, lam lũ, tôi hỏi con còn đi học không ? Dạ còn. Lớp mấy ? Dạ lớp bảy. Tôi yên tâm mà nghĩ rằng, chắc là nó học buổi chiều, đi bán xôi buổi sáng. Biết rằng giữa cuộc sống nầy, những đứa trẻ vừa học vừa dãi dầu mưa nắng để mưu sinh không phải ít, nhưng cái gương mặt vừa xinh xinh phúc hậu, vừa sạm đen của bé Phượng đã gieo trong tôi một hình ảnh đẹp của con nhà nghèo.
Hơn ba năm sau, tình cờ tôi trở lại mua xôi. Con còn đi học không ? Dạ con nghỉ học rồi chú. Sao vậy ? Dạ nhà con nghèo lắm chú ơi, con phải giúp ba con nuôi ba đứa em đi học ở ngoài quê. Quê con ở đâu ? Dạ ở Mũi Né, Phan Thiết. Rồi Phượng kể, ba mẹ cháu chia tay, mẹ đi lấy chồng khác, một mình ba nuôi bốn đứa con nheo nhóc bằng chiếc thuyền thúng đi câu mực, bữa có bữa không. Đó là lý do buộc Phượng phải nghỉ học vào Sài Gòn bán xôi với nội, hàng tháng gởi tiền về cho ba đứa em đi học.
Lần theo địa chỉ Phượng cho một cách mập mờ, tôi tìm ra Mũi Né: nhà thờ Tin lành, quán cà phê . . . đường Huỳnh Thúc Kháng, hỏi tên anh Cu Li. Bên một động cát trắng với chằng chịt những đám xương rồng, những mái nhà con con chơ vơ trong nắng nóng. Một tốp học sinh liêu xiêu trên đường cát, tôi hỏi: Cháu ơi có biết nhà anh Cu Li ở đâu không. Một con bé bật cười: Kia kìa, nhà ba con đó chú. Con là em của Phượng ? Dạ đúng rồi.
Tên thật của anh là Phan Văn Hải, Cu Li là cái tên gắn liền với công việc mưu sinh ở những vựa cá vựa tôm từ tuổi thơ cho đến lúc trưởng thành. Năm 19 tuổi, trong lúc đang làm thuê cho một vựa cá phân, Hải quen với một cô gái cùng cảnh ngộ. Sự đồng cảm của hai kẻ làm thuê đã mang đến một tình yêu và thành vợ thành chồng. Hải phát hoang một lõm rừng chồi bên động cát gần ven biển, dựng lên một túp lều hạnh phúc. Mười bốn năm chung sống, bốn đứa con gái lần lượt chào đời. Từ giã kiếp làm thuê, Hải học được cái nghề câu mực và mua được chiếc thuyền thúng để ra khơi. Cứ 9 giờ đêm, Hải theo đoàn người câu mực lên ghe, cách bờ biển chừng ba mươi hải lý, mỗi người bám một chiếc thuyền thúng cho đến xế chiều. Cái nghề “bà cậu”, có hôm kiếm cả triệu đồng, có hôm lại chẳng có đồng nào, phải nợ chủ ghe tiền chi phí.
Người ta nói phần lớn những người đàn ông đi biển thì vợ ngoại tình, bởi những chuyến hải hành của họ chẳng có thời gian để cùng vợ chia sẻ buồn vui. Hải cũng nghe râm rang những tiếng vào lời ra về người vợ của mình, nhưng anh không tin và cho rằng miệng đời thường như thế. Nhưng rồi một đêm nọ, chiếc ghe vừa ra giữa chừng khơi thì biển động, phải quay vào. Trong tiếng gió thét gào, trong bóng đêm chập choạng, Hải lọ mọ về nhà thì hỡi ơi, trên chiếc giường ấy, ngay chỗ nằm của mình đã có người đàn ông khác.
Thôi thì chia tay. Tài sản chẳng có gì để chia ngoài túp lều rách nát. Người vợ ra đi. Con cái được quyền lựa chọn theo mẹ hay theo cha. Nhưng cả bốn đứa chẳng đứa nào theo mẹ, kể cả bé Kiều Xuân, lúc ấy mới vừa lên ba tuổi nhưng cũng kiên quyết ở lại với ba. Hải tiếp tục cái nghề câu mực ngoài khơi. Nhưng phải vật lộn thêm với những cơn sóng dữ trong lòng. Chín giờ tối ra đi, nhìn bốn đứa con trong túp lều trống vắng, lòng anh nơm nớp nỗi lo. Ra đến biển, nhiều lúc phải đương đầu cùng sóng gió, có khi sóng đánh úp thuyền. Những lúc ấy càng nhớ đến con, xót xa đến trào nước mắt.
Tôi hỏi bây giờ tính sao, Hải lắc đầu chừng như bất lực. Biển càng ngày càng cạn kiệt, có những chuyến đi rồi trở về với hai bàn tay trắng. Ở cái xứ xương rồng cát trắng nầy, muốn tìm việc làm thuê cũng không phải dễ. Hai năm trước, một cơn lốc đi qua, túp lều bật gốc, mấy cha con phải dọn về ở tạm trong căn nhà của đứa em. Nghĩ đời mình thất học mới ra nông nỗi nầy, giờ phải kiên quyết cho con ăn học, nhưng lực bất tòng tâm. Ngày bé Phượng quyết định vào Sài Gòn bán xôi để nuôi em ăn học, Hải nghe đau xé trong lòng, thấy mình có tội với con, nhưng cũng chẳng biết làm cách nào khác được. Mà thật ra, cũng nhờ đồng tiền mưa nắng của Phượng nên ba đứa nhỏ được tiếp tục đến trường. Bé Hằng năm nay hết lớp 9, nghỉ hè nó có thể tìm việc phụ bán cà phê, mỗi tháng kiếm năm bảy trăm ngàn để lên lớp 10 có tiền mua áo dài, sách vở. Hải hy vọng bé Phụng, bé Xuân vài năm sau cũng thế, nghĩa là phải biết tự tạo cho mình một con đường để đến trường.
Trở lại Sài Gòn, tôi tìm đến nhà dì Thảo – mẹ của Hải – trong con hẻm nhỏ trên đường Nguyễn Thị Minh Khai. Khi tôi vào thì bé Phượng phải bước ra đường vì nhà không đủ chỗ ngồi. Bảy mét vuông, một phần dành làm bếp nấu xôi, một phần nhà vệ sinh và một chỗ đặt chiếc cầu thang bước lên gác xép. Nhưng đó lại là nơi ăn chốn ở của Phượng, của bà nội, của người cô và đứa con trai. Chị Trang, cô của Phượng nói: “Em với mẹ làm nghề bán xôi mấy chục năm rồi, khi Phượng vào Sài Gòn, em nhường chiếc xe xôi lại cho nó, em đi phụ bán quán với một người bạn”.
Hai bà cháu hai chiếc xe xôi, dì Thảo đứng bên lề đường Trần Doãn Khanh, trước cổng trường Trần Văn Ơn, Phượng đứng phía sau trường Đinh Tiên Hoàng. Dậy sớm, thức khuya, dầm mưa, dãi nắng, đứng rã đôi chân, hai bà cháu mỗi ngày kiếm được hơn trăm ngàn.Dì Thảo nói: “Thu nhập như vậy sống ở đất Sài Gòn đã chật vật rồi. Hàng tháng phải gởi về quê tiếp thằng Hải nuôi ba đứa con của nó, lại thêm thằng em của nó đang bị xơ gan, không biết sống chết ngày nào. Đời người lớn khổ đã đành, nhưng chẳng lẽ để cho đời con, đời cháu cứ lặp lại đời mình . . .”
Tôi bảo Phượng nên đăng ký học bổ túc văn hóa ban đêm, tôi sẽ cố gắng giúp cháu một phần chi phí. Phượng gật đầu, đôi mắt sáng lên như tìm thấy một niềm hy vọng ở tương lai. Dì Thảo cũng mừng vui: “Nghe lời chú đi con, biết đâu sau nầy con sẽ đổi đời”.
Phượng lại gật đầu. Cái gật đầu của Phượng lần nầy đã làm cho tôi cảm thấy nhẹ lòng đi.